Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Làm Thế Nào Để Phật Giáo Phát Triển ở Phương Tây

09/06/201604:24(Xem: 8224)
Làm Thế Nào Để Phật Giáo Phát Triển ở Phương Tây
Phật Giáo Khắp Thế Giới

Làm Thế Nào Để Phật Giáo
Phát Triển ở Phương Tây

Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001
---o0o---


Ngày 10, 11, 12 và 13 tháng 04/ 1994 vừa qua tại Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ, đã diễn ra cuộc hội nghị của các hội đoàn Phật Giáo phương tây trực thuộc dưới quyền lãnh đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo thế và giáo quyền của nước Tây Tạng. Cư sĩ Sylivia Wetzel, một thành viên trong Hội Phật Giáo Đức quốc, lược ghi một số nét chính của Hội nghị.

phat giao tay phuong

Chư Tôn Đức và Phật tử người Tây phương 



Sau 07 giờ bay từ Đức, phái đoàn chúng tôi đến Tân Đề Li vào chiều tối, chúng tôi phải nghỉ tạm ở một khách sạn tại Connaught Phace. Sáng hôm sau, chuyến xe lửa đầu tiên đưa chúng tôi đến Pathankot đón taxi đề đến Mcleod Ganj, nơi đầu tiên tổ chức hội nghị. Thật vui mừng và hân hoan biết bao để gặp lại bè bạn cũ và biết thêm nhiều thiện hữu tri thức mới.

Vai Trò Của Người Thầy

Hội nghị đã nhất trí thảo luận một cách cởi mở và thẳng thắn vào vấn đề tế nhị này. Những câu hỏi được đặt ra như thế nào là vai trò thích hợp của người thầy, khi vị ấy phải sống và làm việc ởphương tây và sẽ làm gì nếu có sự xung đột của lòng tin nảy sinh với người thầy Á-đông chưa hiểu rõ những đặc tính tâm lý và nhu cầu tín ngưỡng của người đệ tử phương tây. Sư Cô Thubten Pende đã giới thiệu hai mô hình khác nhau của một bậc mô phạm ở phương tây đang được huấn luyện cho các nhà truyền bá Phật giáo tại Tu viện Nalanda ở Pháp quốc. Cư sĩ Jack Kornfield, thành viên của Hội Thiền Định ở Bỉ, phát biểu một số vấn đề về tâm lý học ứng dụng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma lắng nghe và vui vẻ thảo luận với hội nghị. Phần kế là tập trung chính vào quyền hạn của người thầy. Ngài phát biểu một cách ân cần: "Quyền hạn thật sự của một người thầy có được là từ phía người học trò, thật khó mà trao cho một người khác cái quyền hạn của bậc thầy tinh thần. Vì rất khó biết được mức độ nhận thức về tâm linh của người ấy".

Buổi chiều, cư sĩ Bodhi Kjolhede, một giáo viên dạy thiền, người kế thừa Hòa Thượng Roshi Kapleau, mô tả một số trường hợp lạm dụng tình dục và quyền hạn, sử dụng rượu, ma túy cũng như cắt xén ngân quỹ và các tệ nạn khác đã xảy ra ở một số cộng đồng tu học tại Hoa Kỳ. Sư cô Tenzil Palmo, người Anh, nói đến hành vi ứng xử và tư cách đạo đức của một số người thầy tinh thần (cả tu sĩ lẫn cư sĩ) đã và đang đầu đề bàn tán không ngừng trong quần chúng và họ được xem như những người "uyên bác quá đỗi" trong Phật Giáo. Thượng tọa Ajahn Amaro, trụ trì Chùa Amaravati ở Anh Quốc, mô tả phương hướng đào tạo và thụ phong cho tăng sĩ và một số cư sĩ có năng lực để ra lãnh đạo theo truyền thống Theravada. Ni sư Martine Batchelor, thọ giới theo Phật giáo Triều Tiên, yêu cầu hội nghị nên có một đường hướng rõ ràng và phương pháp giáo dục Phật giáo cụ thể để áp dụng ở xã hội phương tây.


Tính Kinh Viện Và Vấn Đề Hội Nhập

Ngày thứ hai hội nghị tiếp tục thảo luận về vấn đề làm thế nào để Phật giáo hòa nhập và thích ứng trong mọi lãnh vực sinh hoạt ở xã hội phương tây, trong khi vẫn giữ được tính xác thực và sự trong sáng trong lời Phật dạy. Cư sĩ Stephen Batchelor, dịch giả và tác giả của nhiều sách và báo về Phật giáo, đã nói đến sự truyền bá và hội nhập Phật giáo một cách nhanh chóng ở các nước Châu Á. Đại đức Olande Ananda, vị sư Nam tông người Hòa Lan, từng sống và tu học ở Miến Điện, đề cập đến việc tôn trọng truyền thống văn hóa của các nhà sư châu Á. Cư sĩ Dharmachari Kulananda, giới thiệu Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhist) là một điển hình cụ thể cho việc hội nhập văn hóa Phật giáo ở phương tây.

Buổi chiều, cư sĩ Alex Berzin, giải thích một số vấn đề khó trong việc giảng thuyết, viết lách và phiên dịch kinh điển Phật giáo. Cư sĩ Fred Von Allmen nói về sự hiện hữu của sự hội nhập có giá trị hơn là cứ ôm giữ truyền thống, điều đó làm cho các nhà truyền bá Phật giáo châu Á không ủng hộ, thậm chí có lúc chống đối ra mặt. Cư sĩ Edie Irwin, người Scotland, phản đối việc phương tiện thái quá trong lý do để thích hợp với xã hội hỗn loạn ở phương tây có thể làm phương hại đến chánh pháp.

Lời phê bình của Đức Đạt Lai Lạt Ma về ngày hôm đó là khá tốt, tuy nhiên hội nghị không phản ảnh được những vấn đề cần thiết hoặc đưa ra một hướng giải quyết nào cụ thể. Chúng tôi cũng cảm nhận như vậy và quyế định ngày kế tiếp làm việc thẳng thắn và có hiệu quả hơn. Theo những nghi vấn về việc đi "quá đà" trong khi tryền giáo, thì Ngài nói: "không có thiệt hại chút nào trong việc sử dụng lời Phật dạy ngoài phạm vi của Phật giáo. Lòng từ bi không phải là tài sản riêng của Đạo Phật. Tuy nhiên, thật sai lầm và không thể tha thứ cho những ai lạm dụng chân lý để mưu cầu lợi dưỡng cho cá nhân hoặc đưa những phương pháp, phong tục tập quán, những văn hóa mê tín mang tính phi Phật giáo vào trong Chánh pháp. Đây là một điều đau buồn cho Phật giáo Tây Tạng nói riêng và cả các nước ở châu Á nói chung, đã vướng phải những sai lầm trầm trọng này mà trong tương lai đòi hỏi chúng ta phải làm việc thật nhiều để loại bỏ chúng".

Tâm Lý Và Định Kiến Giới Tính Trong Phật Giáo

Ngày thứ ba, hội nghị bàn đến những lĩnh vực tâm lý biến đổi trong lúc tu tập. Cư sĩ Junpo Sensei hỏi về những phương pháp loại trừ những ý nghĩ vụn vặt của tâm lý trong lúc ngồi thiền và làm thế nào để tiếp xúc và phát triển nhiều hơn những phút giây thanh thản và an bình có được trong một ngày. "Nhận thức có được là nhờ vượt qua được những xung đột của cảm giác và đớn đau. Yếu tố quan trọng đối với việc phát triển tâm linh trước hết là sự ân cần và quan tâm đến những người khác cũng như biết hổ thẹn và khắc phục với những hành vi sai trái của mình". Đức Đạt Lai Lạt Ma ân cần nhắc nhở hội nghị

Buổi chiều chúng tôi tiếp tục nói đến những nền tảng cơ bản của chủ nghĩa giới tính trong Phật giáo, đó là âm thầm ám chỉ đến một định kiến nặng nề về nữ giới. Cư sĩ Sylvia Wetzel, đã trình bày những khó khăn và những mặc cảm tự ti của phụ nữ Tây phương khi đối đầu với vần đề này. Cô ta đặt ra một giả thiết rằng, nếu một người đàn ông sống và tu học trong một thế giới Phật giáo do nữ giới lãnh đạo, thì y có thể ngoan ngoãn cúi đầu làm theo và tinh tấn trong tu học mà không có một chút tự ti nào về vị trí của mình hay chỉ sống gượng ép một đời với kỳ vọng kiếp sau sẽ trở thành người nữ để có những ưu đãi hơn trong cái thế giới mà người nữ là những bậc thầy tinh thần ấy. Sylvia Wetzel còn nói đến những kết quả không may, hoặc những phiền toái về định kiến giới tính một cách vô ý thức và phản khoa học đối với phụ nữ nói chung và riêng cho hàng nữ tu. Điều đó đã phản ánh trên mức độ ngôn ngữ của từng dân tộc, chẳng hạn một từ dành để gọi phụ nữ Tây Tạng là Kye Men, nghĩa là tái sinh trong đẳng cấp thấp hèn!!! Sự lầm lẫn giữa nam và nữ trong nhiều ngôn ngữ, trong nhiều truyền thống văn hóa như vậy là yếu tố mạnh mẽ trong việc xem nam giới là một kiểu mẫu tâm lý phù hợp duy nhất đối với đời sống chính trị, tâm lý, triết học và tôn giáo. Trong thế giới Phật giáo ít nhiều đã ảnh hưởng về định kiến đó và kết quả là xem rẻ phụ nữ, không quan tâm hoặc giúp đỡ ni giới, nói chung là quên đi những nhu cầu cần thiết để phát triển tâm linh, tâm lý và những điều kiện vật chất cho người phụ nữ.

Đức Đạt Lai Lạt Ma, nói "Hiện thời tôi đang có nhiều việc phải làm, tôi chưa bao giờ nhìn nữ giới theo cách đó. Tuy nhiên, theo tôi thì vấn đề chính là người phụ nữ phải biết nỗ lực và phát triển những tiềm năng của mình để minh chứng rằng mình cũng như nam giới. Mặt khác, nếu có vấn đề khó khăn gì thì phải nói lên, để cùng nhau tìm biện pháp khắc phục. Vấn đề khinh nữ trọng nam, có thể người ta căn cứ trên nền tảng thể chất của người phụ nữ và truyền thống văn hóa. Nếu tập quán và văn hóa thay đổi thì cục diện hoàn toàn khác hẳn".

Vấn Đề Tông Phái Và Điều Kiện Văn Hóa

Cư sĩ Fred Von Allmen, tổng kết những hậu quả xấu bắt nguồn từ chỗ phân biệt và bảo thủ của những tông phái Phật giáo (Buddhist sects) khác nhau ở phương tây, và Đức Đạt Lai Lạt Ma hoàn toàn đồng ý cũng như hy vọng sẽ có nhiều cuộc tiếp xúc hơn trong tương lai giữa các giáo phái Thiền, Tịnh và Mật của Namvà Bắc Tông. "Thật hy hữu và tốt biết bao nếu tất cả tăng sĩ Phật giáo có thể thấu triệt và truyền dạy những văn hóa khác nhau", Ngài nói "Nhưng làm sao để thực hiện mô hình đó thì tôi chưa biết". Cư sĩ Martine Batchelor cho rằng tầm nhận thức sâu sắc và kết quả của sự khám phá về tâm linh sẽ giúp cho người thầy vượt qua những điều kiện văn hóa khắc nghiệt khi truyền giáo.

Vấn Đề Đời Sống Tu Học Của Người Phương Tây

Buổi sáng cuối cùng dành hết thời giờ để thảo luận và giải quyết những khó khăn cho Giáo hội Tăng Già Phương Tây. Thượng tọa Tenzil Rinpoche, mô tả những tình cảnh khó khăn của Tăng đoàn và đặc biệt là Ni giới gặp không ít rắc rối ở xã hội phương tây. "Nếu không khéo" Ngài nói "viên ngọc Tăng bảo (Jewel of Sangha) Phương tây sẽ bị ném vào vũng bùn của sự dửng dưng và khinh rẻ". Đức Đạt Lai Lạt Ma đã xúc động thật sự trước bài báo cáo này và Ngài đã khóc công khai.

Sư Cô Thubten Chodron, đến từ Seattle (Hoa Kỳ), nói lên một đề nghị chi tiết về việc tuyển chọn và đào tạo một cách cẩn thận cho thế hệ trẻ tăng ni phương tây. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhìn nhận việc thụ phong cho tăng ni phương tây là quá nhanh trong khi chưa có một nơi để huấn luyện trước đó, và Ngài hứa sẽ mở một trung tâm đào tạo cho tăng ni và đặc biệt chuẩn bị tốt hơn cho lễ truyền giới. Sau đó, Sư Cô Thubten Pende thỉnh cầu Đức Đạt Lai Lạt Ma sửa đổi và bỏ bớt một số nghi thức trong lễ truyền giới. Vì buổi lễ kéo quá dài và hầu hết người phương tây đều phản ảnh việc một ni cô nói những lời tùng phục và cung kính với hàng Tỳ kheo suốt đời, trong lễ thọ Cụ túc giới.

Đức Đạt Lai Lạt Ma : "tôi cảm thấy hơi bối rối về vấn đề này, một mình tôi không có đủ thẩm quyền để sửa đổi những nghi thức và những quy định trong Đàn giới, chúng tôi cần phải có ý kiến của Hội đồng Tăng già (Sangha Council)". Ngài hứa sẽ triệu tập một cuộc họp với các nhà lãnh đạo Phật giáo của các tông phái khác trong vòng 06 tháng tới để giải quyết vấn đề này và hy vọng sẽ có những thay đổi cần thiết.

Buổi chiều, hội nghị nghe đọc bản dự thảo về chương trình hoạt động trong thời gian tới. Năm mươi đại biểu của hội nghị đều đồng nhất trí và cung thỉnh Đức Đạt Lai Lạt Ma ban đạo từ để kết thúc hội nghị. "... Thế là hội nghị của chúng ta đã thành công tốt đẹp, Ngài nói, những gì cần nói, chúng ta đã nói đủ. Vấn đề thành công hay thất bại, hạnh phúc hay đau khổ luôn bao quanh chúng ta, đó là việc bình thường của cuộc đời, thì công tác Phật sự của chúng ta cũng như thế. Nên nhớ, quá khứ là quá khứ, tương lai trong tay của chúng ta. Xã hội phương tây đang hướng về Phật giáo để tìm sự an lạc cho tâm hồn, nhưng họ có thành công hay không là còn tùy vào sự tu học và làm việc của Quý vị....". Hội nghị bế mạc sau một lễ cầu nguyện ngắn và các đại biểu được trao tặng cho khăn trắng katag để lưu niệm.

Hội nghị cũng nhất trí lấy Dharamsara làm nơi tổ chức hội nghị hàng năm, còn các đại hội địa phương thì tổ chức ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Muốn thỉnh băng ghi âm và video của hội nghị xin liên hệ ở địa chỉ: 4725 E. Sunrise Drive, Suite 137, Tuscon, Arizona 85718, USA.


TK Thích Nguyên Tạng

(dịch theo The MANDALA Journal 04/1994)









facebook-1

***
youtube
 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 13907)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 13350)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3165)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 14694)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 3668)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 11992)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 3832)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 5932)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 7362)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 16092)
Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567