Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phật lịch 2500

27/11/201311:59(Xem: 18809)
26. Phật lịch 2500

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


26. Phật lịch 2500







Năm 1956, chúng tôi đi hành hương chiêm bái Phật tích Ấn Độ với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là năm Phật lịch 2500. Chúng tôi đi vào tháng chín với mấy ngàn người Tây Tạng khác. Chúng tôi đi xe hơi đến Gangtok. Đường đi dài năm ngày. Đức Đạt Lai Lạt Ma đi thẳng từ Gangtok tới Bombay bằng máy bay. Gia đình tôi và tôi đi tới Calcutta. Gyalo Thondup và Tsering Dolma đi máy bay từ Calcutta đến Bombay, Varanasi (Lộc Uyển) và Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng).

Dalai Lama and Nehru


Sau đó chúng tôi đến Lalimpong, trú ở nhà của Raja Dorje. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba đã từng trú ở đó. Trong chuyến hành hương một tháng này, chúng tôi đã viếng thăm hết những thành phố lớn và đi một chuyến tới miền Nam Ấn Độ bằng xe lửa. Ở miền Nam Ấn Độ con trai Samten của tôi được chữa bệnh trĩ và cháu họ của tôi được cắt amidan ở Bhakra Nangal. Ba hay bốn ngày một lần tôi làm món ăn quê hương của chúng tôi. Đức Đạt Lai Lạt Ma và hai vị giáo sư thích thưởng thức những món ăn này vì phần lớn thời gian ở đây chúng tôi ăn những món ăn của Ấn Độ[1].


Khi chúng tôi trở về Tây Tạng thì người Trung Quốc đã trở nên rất mạnh. Họ đã ra lệnh đưa các con trai của tôi về. Tôi lo lắng đến mức không ăn ngủ được. Con rể và con gái của tôi phải tham dự những cuộc họp tuyên truyền của cộng sản, khuân vác đá để làm đường và cày ruộng. Người Trung Quốc lấy của chúng tôi bất cứ cái gì họ muốn, và họ còn bắt đầu đốn cây của chúng tôi. Tất cả các nhà quý tộc phải lao động chân tay, kể cả bà Ragashar. Bà thường nói với tôi rằng bà sẽ không chịu đi lao động, dù có phải trả giá bằng cái chết. Nhưng sau đó bà bị cưỡng bách lao động như một phần công việc của hội phụ nữ. [2]

Người Trung Quốc đến Changseshar nói với tôi rằng nên chuyển ngôi nhà này thành văn phòng của chính quyền. Tôi bảo họ cứ lấy ngôi nhà vì tôi chỉ có một mình, không cần sống trong một ngôi nhà lớn như vậy. Họ muốn trả tiền cho tôi, nhưng tôi không nhận. Họ nói rằng nếu tôi không nhận tiền, về sau người ta sẽ nói là họ cướp nhà của tôi. Họ còn nói rằng họ sẽ mắc điện cho ngôi nhà. Họ gởi cho tôi những món quà biếu và tìm cách chinh phục tôi. Họ nói với tôi rằng vì các con tôi ở xa, họ sẽ chăm sóc tôi, rằng tôi có thể đi Kalimpong, Ấn Độ, để nghỉ vào mùa Đông và ngụ ở trong một ngôi nhà mà họ đã mua ở đó, và tôi có thể nghỉ hè ở Lhasa. Họ sẽ chịu hết mọi chi phí cho tôi. Họ tuyên bố rằng lãnh thổ của họ kéo dài đến tận Siliguri ở phía Nam Kalimpong. Tôi không có gì để nói với họ.[3]

Họ đến gặp tôi bất cứ lúc nào họ muốn. Khi nào họ báo cho tôi biết là họ sẽ tới, tôi lại lo lắng, không biết họ sẽ nói về chuyện gì. Khi họ đi khỏi tôi lại thở ra nhẹ nhõm. Tôi đã rất sợ. Tôi rất cẩn thận khi nói chuyện với họ, vì tôi có thể vô tình làm hại người khác qua những lời nói không cẩn thận của mình.

Dalai Lama tham an do

Tôi đã bị họ quấy rối với những lời mời dự "mít tinh", ăn tiệc, xem chiếu bóng, và những thứ khác. Tôi không bao giờ đi dự, dù họ nhất quyết mời tôi. Điều này khiến cho họ không còn "sủng ái" tôi nữa. Tôi lấy cớ là mình vốn không thích những cuộc vui từ thời còn trẻ hoặc mình đang bị bệnh. Khi tôi từ chối xem chiếu bóng với cái cớ thị lực của mình yếu, họ mang cả máy chiếu phim đến Changseshar để chiếu cho tôi xem. Họ nhất quyết mời tôi tham dự những cuộc họp của họ. Tôi nói với họ rằng việc này vô ích vì tôi không biết đọc, không biết viết. Tôi nói với họ rằng nếu họ muốn, tôi sẽ quét dọn phòng riêng và văn phòng của họ, và sẽ giặt quần áo cho họ. Tôi nói với họ một cách châm biếm rằng mời tôi cũng không ích lợi gì, vì có tôi, sẽ chỉ chiếm một cái ghế và tốn nước trà của họ mà thôi. Sau đó họ để tôi yên.




[1] Đức Đạt Lai Lạt Ma đi Ấn Độ trong thời gian này một phần là tìm sự ủng hộ cho nguyện vọng của người Tây Tạng từ thủ tướng Nehru của Ấn Độ, nhưng đã không có sự hỗ trợ nào. Gia đình của ngài thúc giục ngài nghĩ đến việc ở lại Ấn Độ, nhưng ngài cảm thấy mình cần phải ở cùng với nhân dân của mình trong lúc khó khăn của họ. Ngài trở về Lhasa vào đầu năm 1957. Bà Diki Tsering ở lại Ấn Độ cho đến tháng tám năm 1958, với hai con trai Norbu và Lobsang Samten. Con trai Gyalo Thondup đã sống ở Ấn Độ từ trước.

[2] Đến lúc này thì Cộng Sản Trung Quốc không cần giả vờ không dùng võ lực ở Tây Tạng nữa. Khi cuộc xâm chiếm bằng võ lực lan rộng thì cuộc kháng chiến của người Tây Tạng cũng lan rộng, một phần của cuộc kháng chiến này có sự hỗ trợ của CIA.

[3] Cho tới bây giờ, từ biên giới Tây Tạng và Ấn Độ xuống miền Nam là xứ Sikkim, rồi tới thị trấn Kalimpong, rồi sang Siliguri, hoàn toàn là lãnh thổ của Ấn Độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2022(Xem: 7609)
Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.
04/01/2022(Xem: 9167)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 5387)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
30/12/2021(Xem: 3597)
Không phải lúc nào cũng được xem là nghệ thuật như bối cảnh ban đầu vốn có, các hiện vật mà bây giờ chúng ta phân loại là “nghệ thuật Phật giáo” (Buddhist art), mặc dù có được kỹ thuật thủ công tuyệt xảo và tính thẩm mỹ sâu sắc, chúng được tạo ra với mục đích tôn nghiêm thờ phụng, sinh hoạt văn hóa tâm linh và tích lũy công đức. Giống như nhiều thuật ngữ chính của Phật giáo bị hiểu sai ở phương Tây, thì hình ảnh Phật giáo cũng vậy. Trên thực tế, việc lạm dụng hình tượng Đức Phật trở nên tràn lan, đến nỗi cộng đồng Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan cảm thấy cần phải đặt dấu hiệu cảnh báo trên khắp thành phố để giáo dục du khách thập phương rằng "Đức Phật không phải để trang trí" (Buddha is not for decoration) một cách lạm dụng
22/12/2021(Xem: 4751)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
24/10/2021(Xem: 3457)
Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 tới, Vương quốc Phật giáo này sẽ mở cửa chào đón du khách thập phương hành hương từ 46 quốc gia, thay vì trước đây chỉ công bố 10 quốc gia có nguy cơ thấp bởi dịch Covid-19.
24/10/2021(Xem: 3232)
Hôm thứ Tư, ngày 20 tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi đã phát biểu miêu tả rằng: "Đức Phật là nguồn cảm hứng cho Hiến pháp Ân Độ đến tận ngày nay; Đức Phật luôn Ngự trong tâm hồn của nhân loại và kết nối các nền văn hóa và quốc gia khác nhau."
23/09/2021(Xem: 5404)
Bài Khảo Luận nầy nay đã in lại và trở thành CHƯƠNG MỘT của tác phẩm nầy. Chương hai có tựa đề là: VIỆT NAM PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG QUỐC. Những chương khác nghiên cứu về Phật, Bồ Tát, các Kinh, Luận...là những Kinh, Luận, Bồ Tát... rất uyên thâm, nỗi tiếng, tiêu biểu cho Giáo Lý Phật Giáo của tất cả các tông phái Phật Giáo đang hành đạo tại Việt Nam. Phần cuối của tác phẩm là những phụ lục. Trong đó 3 phụ lục đầu là 3 bài tham luận đã thuyết trình trong 3 lần hội thảo quốc tế, có ghi rõ thời gian và nơi chốn hội thảo. Những phụ lục còn lại là những bài khảo luận nghiên cứu về giáo lý Phật Giáo. Như vậy xét về nội dung tác phẩm nầy không phải là sách chuyên khảo cứu về Lịch Sử Du Nhập và Truyền Thừa của Phật Giáo Việt Nam. Mục đích của tác giả là muốn cho thế hệ người Việt Nam trẽ lưu tâm nghiên cứu sâu, tìm hiểu, phát huy những điểm son lịch sử hào hùng của Dân Tộc Việt, viết lên cho thế giới biết Dân Tộc Việt Nam có lịch sử Hào Hùng, Minh Triết về mọi thời đại, mọi lãnh vực tro
31/03/2021(Xem: 13973)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 8976)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]