Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ, Sri Lanka

08/01/202215:27(Xem: 6385)
Khái lược Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ, Sri Lanka
 




Khái lược
Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ, Sri Lanka

(龍喜國際佛教大學概略)


 

Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.

 

Năng lượng giáo dục đào tạo tuyệt vời này, đã được thực hiện bởi một số lượng lớn các trung tâm học tập ở các nước châu Á. Do các điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa khác nhau, giáo dục Phật giáo đã trở thành một phần của hệ thống giáo dục hiện đại, có thể được giới thiệu như là một nơi phát triển trí tuệ “Duy tuệ thị nghiệp”.

 

Hàng triệu trang sách, bản dịch, các công trình nghiên cứu được công bố và những thư tịch quý báu này vẫn còn lưu giữ trong các thư viện của các ngôi trường Đại học Phật giáo.

 

Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ (Nāgānanda International Institute for Buddhist Studies, 龍喜國際佛教大學, NIIBS) tọa lạc trong khuôn viên ngôi già lam cổ tự Manelwatta, Bollagala, Kelaniya, Sri Lanka là một trong những trường Đại học Phật giáo Quốc tế thứ 10 trên thế giới, lần đầu tiên sau 800 năm lịch sử giáo dục Phật giáo. Đầu kỷ nguyên Tây lịch thứ nhất cho đến thế kỷ 13, có 9 ngôi trường Đại học Phật giáo trên thế giới. Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda được thành lập vào thế kỷ 21.

 

Khu đất đẹp như một bức tranh trong khuôn viên ngôi già lam cổ tự Manelwatta rộng 40 héc ta, được Cư sĩ J. R. Jayewardene (1906-1996), đệ nhị Tổng thống nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka và đệ nhất phu nhân Elina Jayewardene (1913-2007) đã cúng dường để góp phần giáo dục đào tạo tăng tài.

 

Theo tài liệu lịch sử ghi chép, vùng đất này trước đây gọi là “Rajawatta” nằm trong khu vực được đức Quốc vương Naga Maniakkitha cúng dường trong chuyến viếng thăm “Kelanipura” của đức Phật.

 

Sở hữu đất đai này, trước tiên được dâng cúng cho ngôi già lam cổ tự Welivita Sangaraja, nơi Hòa thượng Kandakkaliye Dhammakiththi Nayaka thera trụ trì, người đã khởi xướng các hoạt động phật sự phát triển ngôi già lam cổ tự này. Sau khi Hòa thượng Kandakkaliye Dhammakiththi Nayaka thera già yếu, Hòa thượng Kirinde Sri Dhammananda Nayaka Thera, trụ trì ngôi già lam Sri Lanka Maha Viharaya tại Malaysia đề nghị cử Thượng tọa Tiến sĩ Bodagama Chandima Thera, Tăng trưởng Phật giáo Tăng già Sri Lanka tại Đài Loan làm trụ trì ngôi già lam cổ tự Manelwatta vào năm 2002, và chịu trách nhiệm trong việc kế tục phát triển phật sự nơi đây.

 

Do cam kết, Thượng tọa Tiến sĩ Bodagama Chandima Thera đã có thể thiết lập nhiều nhân sự trợ lý, một học viện cung cấp các chương trình ngắn hạn về nghiên cứu Phật học, một học viện tỳ kheo ni và một bệnh viện Ayurvedic. Bước đầu tiên thành lập Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda, Viện Nghiên cứu Phật học Quốc tế Nāgānan được đặt đá xây dựng vào tháng 08 năm 2013 và dự kiến hoàn thiện vào năm 2016.

 

Công trình xây dựng Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda bao gồm giảng đường, tòa nhà hành chính, thư viện và hội trường lớn với sức chứa 1.500 chỗ. Ngoài ra, còn có khu ký túc xá có thể cung cấp chỗ trọ cho 750 chư tăng, nam và nữ sinh viên. Viện Phật học đã được sự chấp thuận của Bộ Giáo dục, hệ Đại học Sri Lanka vào tháng 12 năm 2015.

 

Ngôi trường Đại học Phật giáo này còn có chỗ lưu trú tạm thời cho khoảng 300 sinh viên ngoại quốc học tập tại Sri Lanka. Các sinh viên đến từ các quốc gia Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Hồng Kông và Trung Quốc...

 

Sau khi hoàn thành, Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda sẽ gồm các khoa: Phật giáo và Triết học, Y dược, Khoa học xã hội, Phật giáo nhập thế, Phật giáo cổ đại.

 

Khoa Nghiên cứu sinh Đào tạo sau đại học

 

Mục tiêu cơ bản của khoa nghiên cứu sinh đào tạo sau đại học là mở rộng chân trời mới của nghiên cứu Phật học, nhấn mạnh đồng đều về các khía cạnh lý thuyết và thực tiễn, thông qua các nghiên cứu chuyên sâu và nghiên cứu liên quan chặt chẽ đến các nguồn chính và minh bạch của các nguồn khác. Hơn nữa, các chương trình nghiên cứu sinh sẽ không bị giới hạn trong các lĩnh vực truyền thống và các môn học được nghiên cứu chủ yếu trên cơ sở lý thuyết ở hầu hết các trường đại học và cơ sở giáo dục bậc cao tại Đảo quốc Phật giáo Sri Lanka.

 

Các chủ đề nghiên cứu sẽ được lựa chọn phù hợp trên yêu cầu của xã hội hiện đại, bởi một số lượng lớn, các nghiên cứu được thực hiện tại các trường đại học và viện nghiên cứu hiện nay, chỉ có thể tạo ra sự nghi vấn trong phát triển trí tuệ. Dường như họ không đóng góp nhiều cho sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội và đạo đức tâm linh của nhân loại, vốn là mục tiêu chính của Phật giáo đáp ứng nhu cầu này rất sớm.

 

Các vị học giả Phật giáo cổ đại đã kết hợp một số chủ đề liên minh vào hệ thống giáo dục và văn hóa Phật giáo để đạt được mục đích ban đầu của Phật giáo là phát triển nhân loại. Vì vậy, các môn học như Āyurveda, Chiêm tinh học, Nghi lễ, Nhạc lễ, các truyền thống tôn giáo khác, Nghệ thuật và Kiến trúc, Nông nghiệp, Lão khoa, Thực phẩm và Dinh dưỡng, v.v. trong các chương trình khoa nghiên cứu sinh đào tạo sau đại học sẽ được học tập và nghiên cứu liên quan đến triết học và văn hóa Phật giáo. Không nghi ngờ gì nữa, sự nỗ lực cao cả này sẽ đóng góp tích cực vào sự phát triển xã hội trong bối cảnh toàn cầu và sẽ mang lại một phẩm giá đáng kinh ngạc cho đất mẹ Sri Lanka.

 

Các khoa truyền thống hệ Phật giáo:

 

Hệ Pali và Sanskrist (Phạn) – Khoa nghiên cứu hệ Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.

 

I. Hệ Phật giáo Pali:

 

- Lịch sử của văn học Pali ở các quốc gia Phật giáo Ấn Độ, Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia.

 

- Kinh tạng Pāli – chữ cái, tầm quan trọng, cấu trúc, nội dung.

 

- Chú giải văn học Pāli - Aṭṭakthā, Tika, Saṅgahagantha, Ganṭhipada, Nigandu, Parikathā .

 

- Văn học Phật giáo dân tộc Sinhalese - Các tác phẩm Paraphrase sáng tạo, Các tác phẩm xuất bản.

 

- Văn học Pāli ở các quốc gia Phật giáo Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Lào.

 

- Các bản thảo Pāli ở Sri Lanka.

 

- Pāli Grammar: Tất cả các khía cạnh của ngữ pháp truyền thống Pāli với các truyền thống của Kaccāyana, Moggallāyana và Saddanīti (Burmese). Cách tiếp cận ngôn ngữ học về ngữ pháp Pāli với các tác phẩm hiện đại.

 

- Thành phần và dịch thuật: Thành phần của văn xuôi Pāli và các bài thơ liên quan đến Vuttodaya và Subodhālaṅkāra. Dịch Pāli của văn xuôi và thơ.

 

II. Hệ Phật giáo Sanskrit (Phạn):

 

- Lịch sử văn học Phạn ngữ Ấn Độ và Sri Lanka.

 

- Văn hóa Vedic (Veda) (1600-600 trước kỷ nguyên Tây lịch) giới thiệu văn học

cổ điển tiếng Phạn.

 

- Giới thiệu văn học Phạn ngữ.

 

- Văn học Phật giáo tiếng Phạn - Tôn giả Mahāyāna Sanskrit, nguồn Vaipulyasūtras Mādhyamaka, nguồn Vijñānavāda, nguồn Tantrayāna.

 

- Sansrit Grammar: Tất cả các khía cạnh của ngữ pháp tiếng Sanskrit có liên quan đến Sārasvata.

 

- Các văn bản Phạn ngữ.

 

- Các nguồn gốc về Phạn ngữ.

 

- Nghệ thuật của Phật giáo; Nguồn Sanskrit liên quan đến nghệ thuật chuyên nghiệp - ví dụ như Chiêm tinh, Āyurveda, Âm nhạc, Nghệ thuật và Kiến trúc, Thơ ca.

 

- Cách tiếp cận ngôn ngữ học đối với ngữ pháp tiếng Sanskrit liên quan đến các tác phẩm hiện đại.

 

- Thành phần và dịch thuật: Thành phần văn xuôi và thơ của tiếng Phạn liên quan đến Vṛttaratnākara và Kāvyādaṛsa. Dịch về văn xuôi và thơ của tiếng Phạn.

 

- La Mã hóa Pāli và Phạn.

 

- Các ký tự Nāgarī, Burmese và Campuchia.

 

Khoa Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng:

 

I. Hệ Phật giáo Trung Quốc:

 

- Lịch sử văn học Trung Quốc từ thế kỷ thứ nhất.

 

- Trung Hoa cổ đại. Bản dịch Trung Hoa cổ đại hệ Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna Sūtras).

 

- Các bản dịch Hán ngữ cổ đại về các nguồn hệ Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna Sūtras).

 

- Văn phạm cơ bản của ngôn ngữ cổ đại Trung Hoa.

 

- Đọc và hiểu các tóm tắt từ nguồn gốc Phật giáo Trung Hoa.

 

II. Hệ Phật giáo Tây Tạng:

 

-  Lịch sử văn học Phật giáo Tây Tạng.

 

- Các văn bản Phật giáo Tây Tạng cổ đại: Tanjur và Kanjur.

 

- Các tác phẩm Tây Tạng cổ đại thuộc Tantrayana hay Vajrayana.

 

- Văn phạm cơ bản của ngôn ngữ cổ điển Tây Tạng.

 

- Đọc và hiểu các tóm tắt từ các nguồn gốc Phật giáo Tây Tạng cổ đại.

 

Khoa Thực hành và Ứng dụng Phật giáo

 

- Phòng Tôn giáo so sánh: Khoa học, Lịch sử, Kiến trúc Phật giáo, Phương pháp thực tập Thiền Phật giáo, Khoa học Xã hội và Đạo đức Phật giáo, Phòng Quản lý và Truyền thông Phật giáo.

 

- Y học Phật giáo...

 

Hợp tác quốc tế

 

Đại học Trung tâm Nghiên cứu Tây Tạng, Saranath, Varanasi, UP, Ấn Độ

 

Trường Cao đẳng Phật giáo Hungary (Dharma Gate Buddhist College)

 

Học Viện Chohankook Han Eui, Hàn Quốc

 

Đại học Sư phạm Thượng Hải, Trung Quốc

(Shanghai Normal University, 海師範大學)

 

Đại học Trung Hoa, Đài Loan

(Chung Hua University, 中華大學)

 

Đại học Quốc lập chính trị

(National Chengchi University, 國立政治大學)

 

Đại học Sumy State, Ukraine

 

Người chịu trách nhiệm công trình xây dựng Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda là Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero. Giám đốc điều hành đương nhiệm Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda, Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero, Phương trượng Trụ trì Tu viện Manelwatta Viharaya,  Bollegala, Kalaniya,Sri Lanka, Sri Lanka.

 

Hòa thượng Tịnh Không, người ủng hộ phật sự, tài trợ cho Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero trong hoạt động phát triển, hoằng dương chính pháp trên toàn thế giới. Ngài chia sẻ rằng: “Bây giờ tuổi tôi đã già, sức yếu, không thể thêm chương trình mới. Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero, tuổi trẻ tài cao, có nhiều năng lực để thực hiện các hoạt động phật sự. Vì vậy, Thượng tọa hãy tiếp tục với các hoạt động phật sự, cống hiến vì sự lợi lạc cho nhân loại, tôi sẽ ủng hộ hết mình tất cả các hoạt động phật sự”.

 




Nāgānanda (1)Nāgānanda (2)Nāgānanda (3)Nāgānanda (4)Nāgānanda (5)Nāgānanda (6)Nāgānanda (7)Nāgānanda (8)Nāgānanda (9)



Lip video

 

Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda Sri Lanka

(Nāgānanda International Institute for Buddhist Studies, NIIBS)

 

https://www.youtube.com/watch?v=N7UepIqqe3M
https://www.youtube.com/watch?v=ytyTt3oI3iw

https://www.youtube.com/watch?v=bEml9m1hpR4

https://www.youtube.com/watch?v=GRZjF5Jz4Uc



 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Đại học PGQT Nāgānanda)


facebook
youtube
 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2022(Xem: 7429)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 4429)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
30/12/2021(Xem: 2868)
Không phải lúc nào cũng được xem là nghệ thuật như bối cảnh ban đầu vốn có, các hiện vật mà bây giờ chúng ta phân loại là “nghệ thuật Phật giáo” (Buddhist art), mặc dù có được kỹ thuật thủ công tuyệt xảo và tính thẩm mỹ sâu sắc, chúng được tạo ra với mục đích tôn nghiêm thờ phụng, sinh hoạt văn hóa tâm linh và tích lũy công đức. Giống như nhiều thuật ngữ chính của Phật giáo bị hiểu sai ở phương Tây, thì hình ảnh Phật giáo cũng vậy. Trên thực tế, việc lạm dụng hình tượng Đức Phật trở nên tràn lan, đến nỗi cộng đồng Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan cảm thấy cần phải đặt dấu hiệu cảnh báo trên khắp thành phố để giáo dục du khách thập phương rằng "Đức Phật không phải để trang trí" (Buddha is not for decoration) một cách lạm dụng
22/12/2021(Xem: 3831)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
24/10/2021(Xem: 2888)
Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 tới, Vương quốc Phật giáo này sẽ mở cửa chào đón du khách thập phương hành hương từ 46 quốc gia, thay vì trước đây chỉ công bố 10 quốc gia có nguy cơ thấp bởi dịch Covid-19.
24/10/2021(Xem: 2724)
Hôm thứ Tư, ngày 20 tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi đã phát biểu miêu tả rằng: "Đức Phật là nguồn cảm hứng cho Hiến pháp Ân Độ đến tận ngày nay; Đức Phật luôn Ngự trong tâm hồn của nhân loại và kết nối các nền văn hóa và quốc gia khác nhau."
23/09/2021(Xem: 4531)
Bài Khảo Luận nầy nay đã in lại và trở thành CHƯƠNG MỘT của tác phẩm nầy. Chương hai có tựa đề là: VIỆT NAM PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG QUỐC. Những chương khác nghiên cứu về Phật, Bồ Tát, các Kinh, Luận...là những Kinh, Luận, Bồ Tát... rất uyên thâm, nỗi tiếng, tiêu biểu cho Giáo Lý Phật Giáo của tất cả các tông phái Phật Giáo đang hành đạo tại Việt Nam. Phần cuối của tác phẩm là những phụ lục. Trong đó 3 phụ lục đầu là 3 bài tham luận đã thuyết trình trong 3 lần hội thảo quốc tế, có ghi rõ thời gian và nơi chốn hội thảo. Những phụ lục còn lại là những bài khảo luận nghiên cứu về giáo lý Phật Giáo. Như vậy xét về nội dung tác phẩm nầy không phải là sách chuyên khảo cứu về Lịch Sử Du Nhập và Truyền Thừa của Phật Giáo Việt Nam. Mục đích của tác giả là muốn cho thế hệ người Việt Nam trẽ lưu tâm nghiên cứu sâu, tìm hiểu, phát huy những điểm son lịch sử hào hùng của Dân Tộc Việt, viết lên cho thế giới biết Dân Tộc Việt Nam có lịch sử Hào Hùng, Minh Triết về mọi thời đại, mọi lãnh vực tro
31/03/2021(Xem: 10874)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 7594)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
13/09/2020(Xem: 11365)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567