Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản phúc trình của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc

28/10/201307:41(Xem: 16221)
Bản phúc trình của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc

unitednations_1BẢN PHÚC TRÌNH
CỦA PHÁI ĐOÀN ĐIỀU TRA LIÊN HIỆP QUỐC
VỀ ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO TẠI NAM VIỆT NAM NĂM 1963


DOCUMENT A/5630

Report of the United Nations Fact-Finding Mission to South Viet-Nam
[Original text: English, French and Spanish] [7 December 1963) .

Bản Phúc Trình A/5630 (Report of the United Nation Fact-Finding Mission to South Viet-Nam) nguyên gốcbằng tiếng Anh, tường trình các lời khai của các nhân vật chính có liên quan trực tiếp đến biến cố Phật giáo năm 1963.

Bản văn cho biết Phái Đoàn LHQ bao gồm các nhà ngoại giao Afghanistan, Brazil, Ceylon, Costaria, Dahomey, Morocco, và Nepal. tới Sài Gòn lúc 12:30 am sáng 24-10-1963, phỏng vấn nhiều nhân chứng tại Sài Gòn cho đến sáng 30-10-1963 đi Huế, hôm sau trở lại Sài Gòn ... . Họ phỏng vấn nhiều người liên hệ tới cáo buộc đàn áp Phật Giáo, nhưng không được phép phỏng vấn Thượng Tọa Thích Trí Quang và một số người khác bị chính phủ Ngô Đình Diệm cho là đối lập chính trị (political opposition).

Tới ngày 1-11-1963 xảy ra cuộc đảo chánh. Công việc của phái đoàn tới đây xem như chấm dứt. Nghĩa là, chỉ phỏng vấn các nhân chứng có 6 ngày (riêng 2 ngày cuối tuần là 26 và 27/10 phần lớn thời gian phái đoàn ở khách sạn đọc tài liệu). Phái đoàn rời Sài Gòn ngày 3-11-1963.

Hồ sơ được trình lên phiên họp khoáng đại Đại Hội Đồng LHQ lần thứ 1280 vào ngày Thứ Sáu 13 tháng 12-1963, nhưng LHQ quyết định không bàn hồ sơ này, vì ông Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ .

Đính kèm bàinày có 2 hồ sơ dạng PDF và 1 hồ sơ dạnh ảnh .jpg. Hồ sơ thứ nhất là bản báo cáo dài 93 trang mang số A/5630, hồ sơ thứ nhì là văn bản buổi họp của LHQ ngày 13-12-1963 dài 4 trang,trong đó có đề mục "Agenda Item 77",nói rằng Đại hội đồng (LHQ) thấy không cần thiết để tiếp tục xem xét (xếp hồ sơ)

Bản Phúc Trình gồm bốn chương, chương đầu nói về thứ tự thời gian hoạt động của phái đoàn chương kế tường trình về cáo buộc vi phạm nhân quyền (bởi chính quyền Ngô Đình Diệm) của 16 quốc gia thành viên LHQ , chương thứ 3 là lập trường của chính quyền Ngô Đình Diệm và chương thứ 4 là phần khảo sát nhân chứng và các thư từ phái đoàn tiếp nhận. Trong chương này có phần ý kiến của phái đoàn, kể những gì nhìn thấy bằng mắt khi tới các chùa và bệnh viện. Phần cuối bản phúc trình cho biết, “Tạiphiên họp khoáng đại thứ1280 thông qua ngày 13 Tháng Mười Hai 1963, Đại hội đồngquyết định khôngtiếp tục xem xét vụ việcnày”.

Trong Bản Phúc Trình LHQ, có bản dịch bản Thông Cáo Chung Ngày 16/6/193 trên đó có chữ ký của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và Tổng Thống Ngô Đình Diệm (xem trang 85), và có bản dịch Dụ Số 10 do Quốc Trưởng Bảo Đại ký năm 1950 (xem trang 86).

Có một số chi tiết quan trọng trong bản Báo Cáo này: ở 3 tỉnh Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định từ năm 1956 tới 1963 có 208,000 người bị ép vào Đaọ Công Giáo.

Kết luận lẽ ra nằm trong cuộc thảo luận ngày Thứ Sáu 13-12-1963, qua thảo luận về "Agenda Item 77" nhưng LHQ bác bỏ, nói không cần thiết nữa, vì ông Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ .

NHẬN XÉT:

Theo LHQ, hồ sơ này là "inconclusive"vì chưa đưa ra LHQ thảo luận, và vì chỉ mới phỏng vấn một phần trong hai bên thôi. Nguyên văn câu đó “It arrived in Saigon in late October and heard a number of witness. Unfortunately for the scholar, the affair ended inconclusivelyas a result of the successful coup against President Diem that took place while the mission was in Saigon”. [Phái đoàn đến Sài Gòn vào cuối tháng Mười và đã nghe một số nhân chứng. Không may cho các học giả, công việc bị kết thúc dang dỡvì cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm đã thành công khi phái đoàn đang ở Sài Gòn]. Câu nầy hàm ý cuộc điều tra không đi đến được một kết luận nào vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ chứ không phải vì không có đàn áp Phật Giáo(xem phóng ảnh trang 67 đính kèm, trích từ cuốn United Nations high commissioner for human rights”, By Roger Stenson Clark, trang 67,

Nói tóm lại là bản phúc trình không hề có kết luận "Không có đàn áp tôn giáo" như những thế lực thù nghịch với Phật Giáo đã nói.

Có một điểm cần lưu ý là trong cuộc điều tra, phái đoàn đã không phỏng vấn ba nhân vật quan trọng trong biến cố Phật Giáo năm 1963, Thượng Tọa Thích Trí Quang, người lãnh đạo tinh thần của Phật giáo năm ấy, ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn và cựu Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó tỉnh trưởng nội an, người có mặt tại đài phát thanh Huế đêm 8/5/1963.

ĐÍNH KÈM:

Bản báo cáo dài 93 trang mang số A/5630 (Bản gốc bằng Anh ngữ)
Văn bản buổi họp của LHQ ngày 13-12-1963
(Bản gốc bằng Anh ngữ)
Phóng ảnh trang 67, trích từ cuốn United Nations high commissioner for human rights”

UN_1963Report-1-contentĐỀ MỤC THẢO LUẬN SỐ 77” VÀTÀI LIỆU A/5630
Report of the United Nations Fact-Finding Mission to South Viet-Nam – 7-12-1963


Bản Phúc Trình nguyên gốcbằng tiếng Anh, dài 93 trang, gồm 4 chương và 16 Phụ lục. Tất cả được đăng lại trong Đề mục Thảo luận số 77 của Liên Hiệp Quốc:
- Chương I: Ghi chép theo trình tự các hoạt động của Phái đoàn (Chronological Accounts of the Mission’s Activities).
- Chương II: Tố cáo trước Hội đồng Khoáng Đại (LHQ) về Vi phạm Nhân quyền tại Việt nam Cọng hòa (Allegations of Violations of Human Rights in the Republic of Viet-Nam brought Before the General Assembly).
- Chương III: Lập trường của Chính phủ (Position of the Government)
- Chương IV: Thẩm tra các Nhân chứng và Thông tin mà Phái đoàn nhận được (Examination of Witness and Communications Received by the Mission).

Toàn bộ Tài liệu A/5630 (Document A/5630)được đăng lại trong Đề mục Thảo luận số 77 (Agenda Item 77) ___(Click xem lớn hơn)

Tâm Diệu/Ban Biên Tập
http://www.thuvienhoasen.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/06/2011(Xem: 5503)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
10/06/2011(Xem: 6110)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
26/05/2011(Xem: 3079)
Trong lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo châu Á nói chung, Luy Lâu được coi là chiếc nôi của Phật giáo. Nó được coi là Trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất trong ba trung tâm Phật giáo thời kỳ khởi thuỷ ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á: Trung tâm Phật giáo Luy Lâu; Trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành (thuộc Trung Hoa).
14/05/2011(Xem: 7922)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ. Ngay đối với số đông các Phật tử Việt Nam, Thiền tông cũng là một tông phái được ít người hiểu đến vì tính cách kỳ đặc của pháp tu này, vì vậy nên có những xét đoán, phê bình không đúng. Chúng ta nên tránh việc phê bình, chỉ trích các tông phái khác tông phái mình đang tu, vì tông phái nào cũng đòi hỏi một sự học hỏi sâu xa, nên thường khi chỉ trích các tông phái khác thì chỉ căn cứ theo một số hiểu biết hời hợt về tông phái đó, vì vậy những lời chỉ trích thường không đúng được, và chỉ gây thêm những tranh luận vô ích, mất thì giờ. Chúng ta nên tìm học kỹ để phân biệt rõ ràng và thực hành đúng lời Phật dạy, chứ không phải để tranh luận, chỉ trích.
14/04/2011(Xem: 7061)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
12/04/2011(Xem: 13331)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
12/04/2011(Xem: 11268)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
04/04/2011(Xem: 8009)
Khởi đi từ Ấn Độ cách đây 2556 năm về trước, giáo lý của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni bắt đầu tỏa chiếu từ cội cây Bồ Đề linh thiêng và kể từ đó đến nay giáo lý từ bi trí tuệ ấy đã làm cho không biết bao nhiêu chúng sanh được gội nhuần ân pháp vũ. Bất luận là Á Âu hay Mỹ Phi Úc, đâu đâu nếu có những người hướng thiện, muốn tu học và cần cầu sự giải thoát; thì giáo lý kia chính là những chất liệu dưỡng sinh để giúp cho con người mau ra khỏi vòng tục lụy của một kiếp nhân sinh
10/03/2011(Xem: 7116)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
05/01/2011(Xem: 2880)
Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch có những biến chuyển rất lớn về những vấn đề xã hội, văn hoá tư tưởng và tôn giáo. Vào thời điểm này, Ấn Độ chưa phải là một quốc gia rộng lớn độc lập mà bao gồm nhiều tiểu vương quốc khác nhau. Và các tiểu vương quốc ở những khu vực biên giới từ lâu được xem là man di nay đang vùng lên chiếm ưu thế và họ có những thế lực nhất định trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Bà-la-môn giáo từ lâu được xem là tôn giáo chính thống đang bị suy giảm uy tín cũng như quyền lực lãnh đạo tinh thần xã hội. Lòng người trở nên hoang mang và hầu như mất đi nơi quy hướng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]