Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Ấn Độ

24/01/201212:34(Xem: 5568)
01. Ấn Độ

 

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂNPHẬT GIÁO ĐẠI THỪA BỒ TÁT GIỚI

Thích Thái Hòa

- Ấn Độ

Sau khi đức Phật diệt độ, kinh điển đã được kết tập nhiều lần bởi các hàng đệ tử của Ngài qua các thời kỳ khác nhau.

Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.

Nếu chúng ta đọc kỹ kinh Mahàpadàna (Đại bản) thuộc văn hệ kinh tạng Pàli hay Nam Phạn, chúng ta thấy tinh thần Bồ tát giới hiện rõ ở trong kinh này.

Ngay ở trong kinh này đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể lại cho các tỷ kheo về thân thế, chí nguyện xuất gia, phương pháp tu tập, thành đạo và giáo hóa chúng sanh của chư Phật quá khứ. Và cũng chính sự ra đời của Ngài cũng là để kế thừa truyền thống tu tập, giác ngộ, và giáo hóa chúng sanh của chư Phật quá khứ mà thôi.

Và ở trong kinh điển này, đã nêu rõ tâm chí của người xuất gia rất là cụ thể, đó là "vì khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện hạnh, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ gìn không hại chúng sanh, khéo có lòng từ bi đối với chúng sanh".1

Trong đoạn kinh nêu rõ tâm chí của người xuất gia ở trên, chúng ta thấy rõ trong đó có hàm đủ tinh thần Bồ tát tam tụ tịnh giới.

Chẳng hạn: "Khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh", là Nhiếp luật nghi giới.

"Khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp", là Nhiếp thiện pháp giới.

"Khéo giữ gìn không hại chúng sanh, khéo có lòng từ bi đối với chúng sanh", là Nhiêu ích hữu tình giới.

Tuy nhiên, kể từ khi đức Phật Niết Bàn, khoảng 200 năm, Phật giáo Ấn Độ đã trải qua những thời kỳ phân hóa và chuyển hóa để phát triển đến mức độ rộng lớn, không những về mặt tư tưởng mà còn về mặt địa dư nữa.

Nên tinh thần Bồ tát giới không những thấm sâu vào nếp nghĩ, nếp sống của những hàng đệ tử Phật, mà còn biểu lộ rất cụ thể trong đời sống đạo đức của dân Ấn.

Vua Asoka (A Dục) của Ấn Độ, lên ngôi vào khoảng năm 267 trước Tây Lịch, là một vị Vua anh hùng, đã đem quân chinh phạt các lân bang và đã thống nhất sơn hà Ấn Độ lúc bấy giờ.

Nhưng, sau khi quy y và thọ giới pháp của Phật, vua đã tự mình bỏ việc săn bắn, ra lệnh nhân dân cấm sát sanh, bảo vệ các loài sinh vật, giảm bớt đời sống xa hoa, ra lệnh kiến thiết chùa chiền, khuyến khích việc từ thiện và rất tận tụy với việc tuyên dương chánh pháp.

Vua đã thực hiện hạnh từ bi một cách cụ thể như: Ban bố các sắc lệnh trồng các cây dược thảo để chữa bệnh cho nhân dân, đào giếng bên đường để lấy nước cho người và vật uống. Thiết lập các thí liệu viện để chữa bệnh, nuôi người già yếu và tàn tật.

Vua còn ra lệnh cho nhân dân, quan lại phải mở "vô giá đại hội", để cúng dường cho các bậc sa môn, bà la môn, tôn trọng tính mạng của sinh vật, tránh các việc xa xỉ, cấm nhân dân không được bạo ác phóng đãng, phải tôn kính cha mẹ, sư trưởng, các bậc già cả, hài hòa với những người tật bệnh, thương yêu những kẻ nô lệ, tôn trọng và khuyến khích nhau làm điều thiện.2

Đối với chính trị, Vua đã quan niệm rất rõ ràng, Vua nói: "Làm chính trị là vì lợi ích và an lạc cho mọi người, nếu không giúp được lợi ích cho dân, thì sao được gọi là chính trị".

Lại có người hỏi: Thế nào là tạo lợi ích cho nhân dân? Vua đáp: "Dân là ai? Dân là ta chứ còn ai nữa. Mọi người dân đều là ta, mọi gia đình đều là gia đình ta, mọi con dân đều là con ta".

Đối với địa vị quốc vương, vua nói như sau: "Vua cũng là một chúng sanh trong hằng hà chúng sanh, mà có khác chăng, Vua là người được hưởng ân huệ, mà chúng sanh khác chưa hưởng".

Đối với việc tín ngưỡng, Vua dạy như sau: "Sống trên thế gian này, cứ dốc lòng quy y Tam Bảo, nỗ lực làm điều thiện, tránh sát sinh, là không có việc cúng tế nào hay hơn thế nữa rồi".3

Qua nội dung phát biểu và hành động của Vua A'soka, chúng ta thấy rằng, tinh thần Bồ tát giới thấm sâu vào nếp nghĩ và cách hành động, không những riêng bản thân Vua mà ngay cả chính sách trị dân của Vua nữa, cũng như tinh thần Bồ tát giới ảnh hưởng trong quảng đại quần chúng, dưới thời Vua Asoka là như thế nào rồi?

Tinh thần Bồ tát giới đến thời đại Ngài Mã Minh (Asraghosa) ra đời, thì phát triển và cực thịnh hơn.

Thời đại của Ngài Mã Minh Bồ tát ra đời là thời đại đầu thế kỷ thứ II-Tây lịch. Ngài không những trác việt về chứng ngộ tâm linh mà còn là một nhà Phật học uyên áo, một thi hào, một văn hào kỳ tuyệt và một nhà biện thuyết tăm tiếng bấy giờ.

Ngài đã trước tác nhiều tác phẩm vĩ đại, trong đó có bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín còn truyền đạt đến ngày nay.

Luận Đại Thừa Khởi Tín là gì? Đó là luận chứng nói về tâm lượng rộng lớn, để phát khởi đức tin đối với giáo nghĩa Đại thừa.

Do đó, các nhà sử học nhận định, Ngài là nhà xiển dương và làm hưng thịnh Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ II-Tây lịch, không phải là không có căn cứ.

Xiển dương giáo nghĩa Đại thừa, chính là nêu rõ cách nhìn cuộc đời, cách nhìn thân tâm và phương pháp tu tập thích ứng rộng lớn với tâm lượng Bồ tát đạo, mà chính ở trong bài kệ tụng mở đầu của Luận Đại Thừa Khởi Tín, Ngài Mã Minh đã nêu rõ:

"Kính lễ hết thập phương

Bậc cứu thế đại bi,

Thân vô ngại tự tại,

Tâm tối thắng biến tri,

Và thể tướng thân ấy,

Biển pháp tánh chân như.

Cùng Bậc tu như thật,

Chứa vô lượng công đức.

Vì muốn khiến chúng sanh,

Trừ nghi bỏ tà chấp,

Khởi chánh tín Đại thừa

Dòng dõi Phật bất tuyệt".

Ngay trong nội dung bài tựa, Ngài đã nói lên tâm nguyện chân thành quy kính Tam Bảo và mục đích tạo luận của Ngài.

Mục đích đó là vì tâm đại bi, thương xót chúng sanh, muốn chúng sanh không bị rơi vào đường tà, vì muốn chúng sanh có lợi ích lớn, có đức tin và học giáo nghĩa Đại thừa, vì muốn hạt giống Phật pháp được tung vải khắp mọi không gian và mọi thời gian để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh và hạt giống đó không bao giờ để cho bị khô kiệt và hư mất.

Ngay cả trong bài kệ đó, chúng ta nhìn sâu và kỹ, thì cũng thấy ngay tinh thần thọ và trì Bồ tát giới của Ngài Mã Minh là như thế nào rồi, chứ không cần phải bàn luận nữa.

Đến Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) ra đời, khoảng thế kỷ thứ III, Ngài có công lớn trong việc hệ thống và khai triển giáo nghĩa Đại thừa.

Ngài là vị thông minh tuyệt vời, không những thông hiểu giáo pháp nguyên thủy, quan điểm của các bộ phái Tiểu và Đại thừa Phật giáo mà Ngài còn thông hiểu hết thảy mọi triết thuyết của Ấn Độ lúc bấy giờ. Không những vậy mà ngay cả các môn khoa học như Thiên văn, Địa lý, Lịch số và các thế pháp khác, Ngài cũng đều thông thạo.

Do đó, Ngài đã được Vua nước Kosa là Satvàhana ngưỡng mộ và phát tâm theo Ngài để quy y Tam Bảo, thọ trì giới pháp.

Ngài đã trước tác rất nhiều bộ luận nổi tiếng như Trung Quán Luận, Đại Trí Độ Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Bồ Đề Tư Lương Luận...

Nếu đọc kỹ Bồ Đề Tư Lương Luận, là bộ luận Ngài bàn đến Tứ vô lượng tâm, Thập ba la mật. Hoặc Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận, là bộ luận Ngài giải thích về Bồ đề tâm, và cho rằng: Bồ đề tâm là lấy tâm nguyện đại bi làm thể.

Còn ở trong tác phẩm Khuyến Phát Chư Vương, thì Ngài khuyến khích các bậc quốc vương, ngoại hộ Phật pháp nên thực hành Pháp Thập Thiện.

Và ở trong tác phẩm Quảng Đại Phát Nguyện Tụng, thì Ngài nói về cảnh giới của chúng sanh là vô tận, nên quốc độ của chư Phật cũng là vô tận. Và hễ tu tập hạnh kính lễ chư Phật thì diệt trừ vô lượng tội lỗi, sinh trưởng vô lượng phước đức và đem vô lượng phước đức ấy mà hồi hướng cho hết thảy chúng sanh.

Do đó, ngay ở trong tác phẩm của Ngài Long Thọ, cũng đủ để chứng minh tinh thần tu tập Bồ tát giới và sức truyền Bồ tát giới của Ngài đối với thời đại ấy và mai hậu.

Đến thế kỷ thứ IV, Ngài Bồ tát Di Lặc (Maitreya) ra đời, ở xứ Ayodhya nước Magadha (Ma Kiệt Đà), có trước tác nhiều bộ luận nổi tiếng, để xiển dương giáo nghĩa Đại thừa, trong đó có bộ Du Già Sư Địa Luận 100 cuốn và Thập Địa Kinh Luận, hai bộ luận này của Ngài nêu rõ tinh thần thọ trì và giới tướng của Bồ tát giới và xiển dương tinh thần Bồ tát đạo rất triệt để.

Cũng thế kỷ này, có Ngài Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) cũng ra đời.

Theo tương truyền, Ngài Vô Trước đã học giáo nghĩa Đại thừa với Bồ tát Di Lặc, sau đó Ngài đã có nhiều tác phẩm để xiển dương giáo nghĩa Đại thừa như: Hiển Dương Thánh Giáo Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận...

Sau đó, Ngài Vô Trước lại chuyển hóa tâm nguyện của người em là Thế Thân hướng đến Đại thừa và Ngài Thế Thân đã lãnh hội giáo nghĩa Đại thừa một cách sâu xa.

Về sau, Ngài Thế Thân đã trước tác nhiều luận pháp nổi tiếng để xiển dương giáo nghĩa Đại thừa như: Duy Thức Tam Thập Tụng, Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận, và nhất là Phật Tính Luận, Ngài đã đề cập đến tinh thần Bồ tát giới một cách sâu xa.

Trong Phật Tính Luận, Ngài luận bàn về tinh thần hết thảy chúng sanh đều có Phật tính và đều có khả năng tu tập để thành Phật.

Nói tóm lại, trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Ấn Độ, hễ Phật giáo Đại thừa hưng phát và cực thịnh ở thời đại nào và ở đâu, thì ở đó và lúc đó có sự trao truyền và học tập Bồ tát giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2022(Xem: 6455)
Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.
04/01/2022(Xem: 7491)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 4461)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
30/12/2021(Xem: 2894)
Không phải lúc nào cũng được xem là nghệ thuật như bối cảnh ban đầu vốn có, các hiện vật mà bây giờ chúng ta phân loại là “nghệ thuật Phật giáo” (Buddhist art), mặc dù có được kỹ thuật thủ công tuyệt xảo và tính thẩm mỹ sâu sắc, chúng được tạo ra với mục đích tôn nghiêm thờ phụng, sinh hoạt văn hóa tâm linh và tích lũy công đức. Giống như nhiều thuật ngữ chính của Phật giáo bị hiểu sai ở phương Tây, thì hình ảnh Phật giáo cũng vậy. Trên thực tế, việc lạm dụng hình tượng Đức Phật trở nên tràn lan, đến nỗi cộng đồng Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan cảm thấy cần phải đặt dấu hiệu cảnh báo trên khắp thành phố để giáo dục du khách thập phương rằng "Đức Phật không phải để trang trí" (Buddha is not for decoration) một cách lạm dụng
22/12/2021(Xem: 3862)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
24/10/2021(Xem: 2912)
Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 tới, Vương quốc Phật giáo này sẽ mở cửa chào đón du khách thập phương hành hương từ 46 quốc gia, thay vì trước đây chỉ công bố 10 quốc gia có nguy cơ thấp bởi dịch Covid-19.
24/10/2021(Xem: 2747)
Hôm thứ Tư, ngày 20 tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi đã phát biểu miêu tả rằng: "Đức Phật là nguồn cảm hứng cho Hiến pháp Ân Độ đến tận ngày nay; Đức Phật luôn Ngự trong tâm hồn của nhân loại và kết nối các nền văn hóa và quốc gia khác nhau."
23/09/2021(Xem: 4573)
Bài Khảo Luận nầy nay đã in lại và trở thành CHƯƠNG MỘT của tác phẩm nầy. Chương hai có tựa đề là: VIỆT NAM PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG QUỐC. Những chương khác nghiên cứu về Phật, Bồ Tát, các Kinh, Luận...là những Kinh, Luận, Bồ Tát... rất uyên thâm, nỗi tiếng, tiêu biểu cho Giáo Lý Phật Giáo của tất cả các tông phái Phật Giáo đang hành đạo tại Việt Nam. Phần cuối của tác phẩm là những phụ lục. Trong đó 3 phụ lục đầu là 3 bài tham luận đã thuyết trình trong 3 lần hội thảo quốc tế, có ghi rõ thời gian và nơi chốn hội thảo. Những phụ lục còn lại là những bài khảo luận nghiên cứu về giáo lý Phật Giáo. Như vậy xét về nội dung tác phẩm nầy không phải là sách chuyên khảo cứu về Lịch Sử Du Nhập và Truyền Thừa của Phật Giáo Việt Nam. Mục đích của tác giả là muốn cho thế hệ người Việt Nam trẽ lưu tâm nghiên cứu sâu, tìm hiểu, phát huy những điểm son lịch sử hào hùng của Dân Tộc Việt, viết lên cho thế giới biết Dân Tộc Việt Nam có lịch sử Hào Hùng, Minh Triết về mọi thời đại, mọi lãnh vực tro
31/03/2021(Xem: 10981)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 7657)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567