Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 1: Phân hệ và phân phái

05/01/201202:25(Xem: 5468)
Tiết 1: Phân hệ và phân phái

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG V
SỰ PHÂN CHIA BỘ PHÁI PHẬT GIÁO

TIẾT I. PHÂN HỆ VÀ PHÂN PHÁI

- Tứ chúng.

Nguyên nhân của việc phân phái được khởi đi từ nhiều hệ tư tưởng không giống nhau. Vấn đề này, chương trước đã có nói đến ít nhiều. Đến thời vua A Dục, việc phân phái là từ “Tứ Chúng” chứ không phải từ hai Bộ.

Luận Dị Bộ Tông Luân và Bộ Chấp Dị Nghị(1) đều nói là do Tăng chúng phân rã mà thành Tứ chúng.

Ngài Liên Hoa Sinh và ngài Điều Phục Thiên v.v... khi truyền Phật giáo vào Tây Tạng cũng nói sau Phật nhập diệt một trăm mười sáu năm, các đệ tử Phật dùng bốn thứ ngôn ngữ để tụng giới. Nhất Thiết Hữu Bộ dùng Nhã ngữ (ngôn ngữ của người Aryan) để tụng giới. Đây là hệ kế thừa học lưu của ngài La Hầu La. Đại Chúng Bộ dùng Tục ngữ để tụng giới. Đây là hệ kế thừa học lưu của ngài Đại Ca Diếp. Chánh Lượng Bộ dùng Tạp ngữ để tụng giới (người làm thịnh hành hệ Độc Tử). Đây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ưu Ba Li. Thượng Tọa Bộ dùng (tiếng địa phương vùng trung Ấn Độ) Quỷ ngữ để tụng giới. Đây là hệ kế thừa học lưu của ngài Đại Ca Chiên Diên. Việc tụng giới khác ngôn ngữ của Tứ Chúng cũng được học giả Bố Đốn của Tây Tạng nói đến trong cuốn “Phật Giáo Sử” do ông trước tác (Historyof Buddhism by Buston).

Bộ luận Dị Bộ Tông Luân, được ngài Huyền Trang dịch ra Hán văn(2) cũng nói đến Tứ chúng, đó là:

1. Long tượng chúng, gồm những vị nghiêm trì giới luật, như các học đồ của ngài Ưu Ba Li.

2. Biên Bỉ chúng, gồm những vị phá giới, như “giòng” của Đại Thiên.

3. Đa Văn chúng, gồm những vị Tỳ kheo giữ lời Phật dạy, như các học đồ của ngài A Nan.

4. Đại đức chúng, gồm những vị đại luận sư, họ như học đồ của ngài Phú Lâu Na.

Thuyết nói về sự phân phái vị tất đã chính xác, nhưng ít nhất nó cũng nêu rõ nguyên nhân về ngữ ngôn, về địa vức, và về sự kế thừa học lưu. Bởi tất cả đều liên quan đến sự xuất hiện của các phái.

- Bốn Đại phái và Ba Hệ lớn

Việc thanh lý hệ thống Bộ phái Phật giáo là vấn đề khiến nhiều người phải đau đầu. Nhưng, nhờ ứng dụng phương pháp khoa học để khảo sát, vấn dề ấy mới được điều lý.

Theo nghiên cứu của pháp sư Ấn Thuận - người Tung Quốc. Ông đem Bộ phái Phật giáo chia ra thành bốn phái, ba hệ, hai bộ và một vị(3) theo biểu dưới đây:

lichsuphatgiaoando-05-01

Biểu đồ trên là cơ sở của Bộ phái Phật giáo, dù phân thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, nhưng tất cả hai mặt đều đặt nền tảng căn bản trên giáo lý của đức Phật.

Một chi của Thượng Tọa Bộ thuộc hệ phía đông, lại phân biệt tư tưởng của Thượng Tọa Bộ và của Đại Chúng Bộ, từ đó mà có sự “lấy, bỏ”. Nên có tên là hệ Phân Biệt Thuyết. Hệ này đứng trên lập trường của Thượng Tọa Bộ, nhưng có phần hấp thu tư tưởng tiến bộ của Đại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ của tây hệ, do sinh hoạt ở vùng tây bắc Ca Thấp Di La có phần nhỏ hẹp, lại không tiếp xúc với phía đông; vì vậy, họ độc lập phát triển, và rồi hình thành nên tư tưởng Hữu Bộ bên trong có sự phân rẽ, và thêm một phân phái nữa. Theo sự truyền thừa của Đại Chúng Bộ, thì sau này Hồng Y (Tích Lan Đồng Diệp) Bộ, Pháp Tạng Bộ, Ẩm Quang Bộ, Hóa Địa Bộ, đều thuộc về hệ Phân Biệt Thuyết. Những Bộ này không phản đối Đại Chúng Bộ một cách cực đoan. Về sau Đại Chúng Bộ chuyển xuất thành Đại Thừa Phật giáo, Thánh điển của Hệ Phân Biệt Thuyết ít nhiều cũng có khuynh hướng Đại thừa. Chẳng hạn như Pháp Tạng Bộ (còn gọi là Đàm Vô Đức Bộ) tuy xuất hiện muộn hơn các Bộ khác, nhưng Bộ này lại thuộc về “Tứ Phần Luật”, vì vậy pháp sư Đạo Tuyên của Tung Quốc cho là Bộ này thông với Đại thừa. Điều đó có nguyên nhân xa hơn.

- Sự phân biệt Chi Mạt.

Sở dĩ gọi là phân biệt (tách ra) chi mạt là vì Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đã phân chia rồi, nay lại phân chia thêm nữa. Vì vậy, mới có nhị bộ, tam hệ, tứ bộ, thập bát bộ, nhị thập bộ, Nam truyền thì có hai mươi bốn bộ nối tiếp nhau xuất hiện. Trong tư liệu của Bắc truyền, có nói đến việc phân chia bộ phái, đó là: giáo đoàn bạt Bối Lạt (Bhavya) được truyền tại Tây Tạng, “Văn Thứ Lợi Vấn Kinh”, “Xá Lợi Phất Vấn Kinh”, “Thập Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, Đại Chúng Bộ thì có “Dị Bộ Tông Tinh Thích” do Thanh Biện tạo, tất cả các kinh, luận vừa dẫn đều có nói đến việc phân chia Bộ phái Phật giáo. Theo học giả Mộc Thôn Thái Hiền - người Nhật Bản, thì việc phân chia Bộ phái có liên quan đến tám truyền thuyết khác nhau.

Trong đó lấy “Đại Sử” của Nam truyền, Hán dịch thì lấy “Thập Bát Bộ Luận”(4) của Hữu Bộ, dịch vào đời nhà Tần, “Bộ Chấp Dị Luận”(5) dịch vào đời nhà Trần(6), “Dị Bộ Tông Luân Luận”(7) được dịch vào đời nhà Đường, và “Dị Bộ Tông Tinh Thích” của Đại Chúng Bộ làm trọng yếu. Ngoài ra cũng có thể tham khảo sự truyền thừa của Chánh Lượng Bộ.

Sách này chỉ nhân vào “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” được truyền tại Tây Tạng và “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” nói về việc phân phái, cả hai bộ kinh vừa nêu cùng với thuyết của Hữu Bộ giống nhau, do đó cho nên chỉ lướt qua. Trong ba bộ luận của Hữu Bộ, thì lấy “Dị Bộ Tông Luân Luận”(8) làm đại biểu. Nay xin liệt kê thành bốn biểu đồ sau:

1. “Đại Sử” Chương V, được truyền bởi Thượng Tọa Bộ thuộc hệ Phân Biệt Thuyết của Nam truyền.

lichsuphatgiaoando-05-02

lichsuphatgiaoando-05-03

Chú: Các phái của Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ, phải sau Phật diệt độ từ một trăm đến hai trăm năm mới phân chia; Tuyết Sơn Bộ trở lui, thì sau khi còn các phái của Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đã phân chia mới hình thành.

lichsuphatgiaoando-05-04

Biểu đồ II: “Dị Bộ Tông Luân Luận” được truyền bởi Hữu Bộ thuộc hệ Thượng Tọa Bộ của Bắc truyền.

lichsuphatgiaoando-05-05

lichsuphatgiaoando-05-06

Biểu đồ III, “Dị Bộ Tông Tích Thích” do Thanh Biện tạo, được truyền bởi hệ Đại Chúng Bộ.

lichsuphatgiaoando-05-07

lichsuphatgiaoando-05-08

Biểu đồ IV. Được truyền bởi Chánh Lượng Bộ: Đại Chúng Bộ trước sau sáu bộ, đều được truyền bởi hệ Phân Biệt Thuyết, chỉ có điều là Bộ Kê Dẫn xưng là Ngưu Gia, và Bộ Chế Đa Sơn được xuất từ Bộ Ngưu Gia.

lichsuphatgiaoando-05-09

- Suy định về việc phân Bộ

Theo những biểu đồ trên, có thể nói một cách hiển nhiên; ấy là các thuyết được nói ở phần trước có sự hỗ tương qua lại, để cuối cùng không thể lấy thuyết nào làm chuẩn chung cho tất cả, bởi ý kiến của Luận giả có sự bất nhất. Vì các phái, phái nào cũng lấy lập trường của phái mình làm chính, và đều muốn đề cao sự xuất thân của Bộ phái mình, đồng thời cũng lấy lập trường của phái mình để thuyết minh. Do đó, chúng ta không nên tận tín và sự thuyết mình của một “nhà”, cũng không bỏ bất kỳ sự thuyết minh của một “nhà” nào, mà tập hợp tất cả mọi thuyết minh của các nhà để thẩm tra, suy luận. Có vậy chúng ta mới tiến đến gần diện mạo của lịch sử một cách khả tín. Ngày cả việc thẩm tra, suy luận, chúng ta cũng cần dựa vào trí tuệ của bản thân để đoán định.

Về đại thể mà nói, những tư tưởng được truyền bởi các nhà, đa phần họ đều dùng “Tự tông” làm cơ sở cho Bộ phái mình. Hệ Phân Biệt Thuyết tự lấy Thượng Tọa Bộ làm cơ sở. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cũng lấy “Tự tông” làm “Căn bản” cho Bộ mình. Đây là nói về mặt chủ quan. Do đó, đối với việc phân phái theo thứ lớp của Thượng Tọa Bộ, thì nên theo những gì có phần khả tín, và được truyền bởi Đại Chúng Bộ. Vì Đại Chúng Bộ đứng trên quan điểm khách quan, và không mang thành kiến tự tông (lập trường của tông phái).

Nay xin lấy tiết hai và ba của chương sáu trong bộ “Phật Giáo Ấn Độ” của Pháp sư Ấn Thuận và bài Tự luận về “Nghiên cứu luận thư và luận sư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ làm chủ yếu” cũng của Ấn Thuận để giới thiệu như sau:

lichsuphatgiaoando-05-10

lichsuphatgiaoando-05-11

Về mặt suy định, thì nên nhất trí với những gì được nhiều thuyết đồng quan điểm, lấy đó làm định thuyết, còn như các thuyết lại có sự khác nhau, thì nên đứng trên phương diện khách quan để tham khảo, suy luận, và tìm hiểu tường tận đặc tính của tông thuyết ấy, rồi dùng mối quan hệ hỗ tương trước sau làm chuẩn qui. Có như vậy sự so sánh mới có thể chấp nhận được. Để nắm rõ vấn đề nêu trên, xin đọc nguyên tắc của pháp sư Ấn Thuận, ở đây chỉ giới hạn, nên có tính sơ lược
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2022(Xem: 6421)
Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.
04/01/2022(Xem: 7469)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 4443)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
30/12/2021(Xem: 2884)
Không phải lúc nào cũng được xem là nghệ thuật như bối cảnh ban đầu vốn có, các hiện vật mà bây giờ chúng ta phân loại là “nghệ thuật Phật giáo” (Buddhist art), mặc dù có được kỹ thuật thủ công tuyệt xảo và tính thẩm mỹ sâu sắc, chúng được tạo ra với mục đích tôn nghiêm thờ phụng, sinh hoạt văn hóa tâm linh và tích lũy công đức. Giống như nhiều thuật ngữ chính của Phật giáo bị hiểu sai ở phương Tây, thì hình ảnh Phật giáo cũng vậy. Trên thực tế, việc lạm dụng hình tượng Đức Phật trở nên tràn lan, đến nỗi cộng đồng Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan cảm thấy cần phải đặt dấu hiệu cảnh báo trên khắp thành phố để giáo dục du khách thập phương rằng "Đức Phật không phải để trang trí" (Buddha is not for decoration) một cách lạm dụng
22/12/2021(Xem: 3853)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
24/10/2021(Xem: 2901)
Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 tới, Vương quốc Phật giáo này sẽ mở cửa chào đón du khách thập phương hành hương từ 46 quốc gia, thay vì trước đây chỉ công bố 10 quốc gia có nguy cơ thấp bởi dịch Covid-19.
24/10/2021(Xem: 2742)
Hôm thứ Tư, ngày 20 tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi đã phát biểu miêu tả rằng: "Đức Phật là nguồn cảm hứng cho Hiến pháp Ân Độ đến tận ngày nay; Đức Phật luôn Ngự trong tâm hồn của nhân loại và kết nối các nền văn hóa và quốc gia khác nhau."
23/09/2021(Xem: 4561)
Bài Khảo Luận nầy nay đã in lại và trở thành CHƯƠNG MỘT của tác phẩm nầy. Chương hai có tựa đề là: VIỆT NAM PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG QUỐC. Những chương khác nghiên cứu về Phật, Bồ Tát, các Kinh, Luận...là những Kinh, Luận, Bồ Tát... rất uyên thâm, nỗi tiếng, tiêu biểu cho Giáo Lý Phật Giáo của tất cả các tông phái Phật Giáo đang hành đạo tại Việt Nam. Phần cuối của tác phẩm là những phụ lục. Trong đó 3 phụ lục đầu là 3 bài tham luận đã thuyết trình trong 3 lần hội thảo quốc tế, có ghi rõ thời gian và nơi chốn hội thảo. Những phụ lục còn lại là những bài khảo luận nghiên cứu về giáo lý Phật Giáo. Như vậy xét về nội dung tác phẩm nầy không phải là sách chuyên khảo cứu về Lịch Sử Du Nhập và Truyền Thừa của Phật Giáo Việt Nam. Mục đích của tác giả là muốn cho thế hệ người Việt Nam trẽ lưu tâm nghiên cứu sâu, tìm hiểu, phát huy những điểm son lịch sử hào hùng của Dân Tộc Việt, viết lên cho thế giới biết Dân Tộc Việt Nam có lịch sử Hào Hùng, Minh Triết về mọi thời đại, mọi lãnh vực tro
31/03/2021(Xem: 10947)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 7629)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567