Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Bố thí

10/10/201112:59(Xem: 7230)
11. Bố thí

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

Bố thí

I .- Định nghĩa : Chữ Phạn Dâna phiên âm là Đàn Na có nghĩa là Thí tức là cho, trao tặng còn Bố là cùng khắp. Vậy Bố thí là cho khắp nơi, cho tất cả mọi người, mọi loài. Bố thí hay làm phước cũng cùng nghĩa như nhau. Bố thí là một trong Sáu Độ (Lục Độ Ba La Mật): Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.

II .- Phân Loại : Bố thí được phân thành ba loại:

- Cho tiền bạc, của cải (Tài thí).
- Đem Phật Pháp đến cho người khác biết để tu (Pháp thí).
- Cứu giúp người cho đừng sợ sệt (Vô úy thí).

1) Cho tin bạc, của cải:Gồm có hai loại.

A)Cho những gì quý báu nhất của mình (nội tài): Những thứ gì mình quý báu nhất chẳng hạn như thân mạng của mình, có người dám hy sinh thân của mình để cứu người khác. Trong truyện tiền thân của Phật, có một người lái buôn, đi buôn bằng thuyền buồm, một cơn gió bão nổi lên, thuyền bị chìm, người lái buôn đang ôm cột buồm nổi trên mặt nước, vì lòng từ bi, thấy người khác sắp chết đuối, người lái buôn liền đưa cột buồm cho người ấy bám, còn mình chịu chết chìm. Người lái buôn ấy chính là tiền thân của đức Phật.

Chúng ta thấy rằng loại bố thí nầy, cao quý hơn hết, người phải có tâm từ rất lớn thì mới có thể làm được.

B) Cho những của cải của mình (ngoại tài): Những vật của mình như tiền bạc, nhà cửa, ngựa, xe, ruộng nương ... thấy những người khác thiếu thốn, vì thương họ lâm vào những cảnh khốn cùng chẳng hạn như họ cần tiền bạc chữa bệnh tật, ta cho họ tiền bạc, đi lỡ đường chúng ta cho tiền bạc hay thức ăn, có những người thấy người khác gia đình đông đúc con cái, cần phải có ruộng nương để trồng trọt, liền cho ruộng nương làm để có thức ăn nuôi gia đình, có người thấy người khác nhà cửa mái dột, cột siêu liền giúp tiền của để sửa nhà cho gia đình con cái ăn ở ấm cúng... Lấy của cải của mình, để giúp cho người khác khỏi cảnh nghèo khó, hoạn nạn, khổ đau, chúng ta ai cũng biết và đã từng làm đó là bố thí.

2) Đem Phật Pháp đến cho người khác biết để tu:

Đức Phật vì thương xót chúng sinh chịu những cảnh SANH, LÃO, BỆNH, TỬ nên Ngài mới đi tìm cách giải thoát nó, khi Ngài đạt được Chân lý liền đem đi thuyết giảng cho mọi người biết, Ngài đã đi qua nhiều nước trong xứ Ấn Độ ngày xưa, nhiều vị quốc vương, hoàng hậu, các hoàng tử, các quan chức lớn nhỏ và dân chúng được Ngài giảng cho biết phương pháp tu tập để ra khỏi mọi cảnh khổ đau trong vòng sinh sinh, tử tử.

Trên hai ngàn năm nay, người ta vì muốn giúp người khác, cho nên Phật Pháp được truyền từ người nọ sang người kia, nói cho người khác nghe gọi là thuyết pháp, in kinh điển cho người khác đọc, ngày nay dùng những phương tiện kỹ xảo như in băng cassette, video để cho người khác nghe, nhìn cũng đều nhằm mục đích mang Giáo lý của đức Phật đến cho người khác biết, tin theo để tu học.

Bài trừ mê tín để cho người khác biết rõ Giáo lý của đức Phật, đó cũng là Pháp thí.

3) Cứu giúp người cho đừng sợ sệt:

Điều quan trọng mà Phật cũng như chư vị Tổ sư dạy chúng ta là làm sao cho Tâm thanh tịnh thì trí huệ sanh mà trí huệ sanh thì sẽ tiến tới giác ngộ, tiến dần lên bậc vô thượng Chánh đẳng, Chánh Giác. Lo sợ chẳng những làm cho người ta bị khổ não mà tâm cũng chẳng thanh tịnh. Trong Bát nhã tâm kinh có đoạn quan trọng nhất Phật dạy ... Vì không chấp chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại, nên không Sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.

Giúp cho người hết sợ sệt một điều gì cũng là làm cho người ta khỏi khổ đau.

III .- Sự lợi ích của bố Thí:Đạo Phật là đạo Từ Bi. Từ Bi là ban vui, cứu khổ cho mọi chúng sanh cho nên vì thương người, chúng ta chỉ cho người khác biết Giáo lý của đức Phật, để người ta tránh khỏi khổ đau trong hiện tại và mai sau (Pháp thí ), cho người khác những gì mình có để giúp cho họ thoát khỏi cảnh khổ đau (tài thí) và có những trường hợp chúng ta phải dùng lời nói, cảm tình để khuyên lơn, an ủi người khác cho họ khỏi phải sợ sệt, lo âu (vô úy thí). Người nhận Bố thí luôn luôn được sự an lạc.

Những gì chúng ta trìu mến như thân nhân, của cải đều là một nguyên tố cột ràng chúng ta vào vòng luân hồi sanh tử, bởi vì những ước muốn, lòng ích kỷ sẽ chiêu cảm ta dễ dàng trong luân hồi, bố thí là tập cho ta xả bỏ tất cả, ngày kia ta nằm xuống, lìa bỏ xác thân tạm bợ nầy, tâm ta thanh thản nhẹ nhàn, chỉ tưởng nhớ đến Phật sẽ dễ sanh vào cõi an lạc.

IV .- Kết luận: Mọi sự cúng dường Tam Bảo, từ việc lớn như xây chùa, tô tượng, cúng tứ sự (y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc thang), in phát kinh sách, cúng hương, hoa, đèn, nến đến việc bố thí cho mọi người, dù ít dù nhiều đều có phước báo. Nếu chúng ta thành tâm, hoan hỷ cúng dường, cũng như khi bố thí không suy tính thiệt hơn, nhiều ít, không vì danh lợi, không mong cầu được người khác giúp lại, phước đức này trở nên công đức vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2016(Xem: 8194)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 27293)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
09/04/2016(Xem: 15486)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
19/01/2016(Xem: 5757)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 16739)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
06/07/2015(Xem: 11678)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 8843)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
19/04/2015(Xem: 12652)
Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc.
19/04/2015(Xem: 3591)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại học ở Trung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên. Trước năm 1920, Đại học ở Trung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.
29/01/2015(Xem: 6154)
Theo thời gian lịch sử và không gian vật lý, thì đệ tử Như Lai đều cho rằng núi Thiếu và khe Tào (Tào khê) là địa danh gắn liền với hành trạng Tổ Đạt Ma và Huệ Năng. Bởi đó là Đạo trường hành đạo giáo hóa của các Tổ sư. Đạo trường với quy ước vật lý này đánh dấu những nỗ lực bình sinh sau cùng để các Chân nhân Tổ sư “ung dung xô cửa huyền vi bước vào Đạo”. Để rồi cánh cửa ấy khai phóng nguồn năng lượng siêu nhiên tuôn chảy miên tục, “chắp cánh cho Đạo mầu bay vào cát bụi của kiếp người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567