Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Năm giới

10/10/201112:59(Xem: 8652)
10. Năm giới

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

Năm giới

I.- Nhập: Để cho việc tu học được tinh-tấn, hồi Đức Thế Tôn còn tại tiền, ngài chế ra giới luật, cũng như những luật lệ ở thế gian dùng, người cư sĩ tại gia phải giữ năm giới, vào chùa tu tập, giữ Tám giới gọi là Bát Quan Trai, hay nguyện tu Bồ Tát hạnh có Bồ Tát Ưu Bà Tắc giới gồm 6 giới Trọng và 28 giới Khinh, còn quý vị xuất gia là Sa Di hay Sa Di Ni thọ 10 giới, tỳ kheo thọ 250 giới còn Tỳ Kheo Ni thọ 348 giới và Bồ Tát Giới của quý vị xuất gia có 10 giới trọng và 48 giới Khinh.

Năm giới này là những lời nói, việc làm không tốt cho bản thân và cho xã hội, giữ được Năm giới sẽ tránh được nhân quả xấu, muốn tích cực hơn, người Phật tử nên tu tập theo Mười điều thiện.

II. - Năm giới: Vì lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh, vì để tránh quả báo xấu phải chịu trôi lăn trong luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, nên Phật chế ra Năm giới này cho người tu tại gia. Đạo Phật là đạo đem sự an vui đến để cứu khổ cho mọi người, đạo Phật tôn trọng sự bình đẳng và nhất là sự tự-do, bởi vì con người chúng ta tự làm chủ lấy vận mệnh của chúng ta, chúng ta tự do lựa chọn con đường tu, chúng ta tự do hành động và tự chúng ta chịu trách nhiệm về hành động của mình qualuật nhân quả, Phật không bao giờ bắt buộc chúng ta phải làm điều này điều kia, Phật không bao giờ có thưởnghay phạtbất cứ ai. Người Phật tử giữ năm giới là một việc làm hoàn toàn tự nguyện, khi mình bị sai phạm, tự mình biết và tự mìnhsám hối. Năm giới đó là: Không giết hại (sát), không trộm cướp (đạo), không tà dâm (dâm), không nói sai sự thật (vọng ngữ), không uống rượu (ẩm tửu). Trong Thiên Thai Nhơn Vương Kinhcó nói rằng Ngũ giới của Đạo Phật tức là Ngũ thường của đạo Nho: Bất sát sanh = Nhân, Bất du đạo = Nghĩa, Bất tà dâm = Lễ, Bất vọng ngữ = Tín, Bất ẩm tửu = Trí.

1- Không giết hại:Đức Phật chế ra giới không sát hại vì những lý do sau:

A) Tôn trọng sự bình đẳng:Chúng ta thường nghe câu Đức Phật nói: "Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật tánh" Như vậy mọi chúng sanh đều có Phật tánh, ta không được giết hại một Phật tánh này để nuôi dưỡng một phật tánh khác hay là để giải trí.

B) Nuôi dưỡng lòng từ bi: Từ bi là ban vui cứu khổ, bất cứ một con vật nào trước khi chết cũng đều chống chỏi cái chết, để dành lấy sự sống cho mình, con bò, con heo khi bị đập đầu thọc huyết đều kêu la thảm thiết, chúng ta bị một vết thương đau đớn, rên la biết bao nhiêu, thì con vật cũng đau đớn dường ấy, chúng ta sợ chết biết kêu la cầu cứu, tại sao ta nỡ nào giết hại con vật khác? Tôi nhớ có người bạn là Bác sĩ thú y, anh ta nói hồi còn làm việc ở Lò thịt Chánh Hưng, những con trâu hay bò muốn làm thịt phải đưa qua cho anh khám, nếu nó già cỗi mới được làm thịt, nếu nó còn tơ không được làm thịt, anh thấy rõ hầu hết đều có linh tính, nó không muốn bước tới chỗ khám, khi bắt buộc nó bước tới chỗ khám, hai hàng nước mắt nó chảy dài !

C) Tránh luật nhân quả báo ứng, oán thù: Chúng ta gieo Nhân thì chúng ta sẽ gặt quả chẳng sớm cũng muộn mà thôi, một người gieo hạt đậu, dĩ nhiên sẽ được cây đậu đơm bông kết trái cho người ấy hạt đậu, đậu có được sớm hay muộn, tốt hay xấu còn do những yếu tố đất đai, mưa nắng... Sự giết hại sẽ tạo thành mối oán thù, cứ giết hại lẫn nhau, chiến tranh cũng vì thế mà có.

Tự mình giết, sai bảo người khác giết, thấy người khác giết mà mình sanh tâm vui mừng, tưởng nghĩ đến sự giết hại thảy đều phạm vào tội giết hại.

Sự lợi ích của không giết hại:Về mặt cá nhân, chúng ta tạo được quả tốt, trưởng dưỡng được lòng từ bi của chúng ta, về mặt xã-hội sẽ không có chém giết nhau, sẽ không có chiến tranh gây ra biết bao nhiêu đau khổ, tang thương, thế giới sẽ được hòa bình, nhà nhà ấm no hạnh phúc.

2- Không trộm cướp: Trộm là lén lấy vật gì của người khác, cướp là dùng sức mạnh uy hiếp người khác để lấy tài sản của họ. Những trộm cướp đều do lòng tham, tật xấu gây ra. Phật chế ra điều này vì:

A) Tôn trọng tư hữu: Mỗi người có của cải riêng, mỗi khi bị mất, ai cũng đều tiếc của, cho nên ta không nên lấy của người khác.

B) Diệt trừ lòng tham:Tham lam, giận dữ, si mê gọi là ba thứ độc hại Tham, Sân, Si. Người ta thường nói "lòng tham không đáy", một người có lòng tham, khi muốn có món nầy được rồi lại muốn có món khác, muốn mà không có được nhiều khi ăn không ngon, ngủ không yên, có khi lại sanh tâm làm quấy như trộm cướp của người, sẽ gây ra biết bao nhiêu tội lỗi. Trốn thuế, cờ bạc, gian lận diều gì cũng phạm tội trộm cướp này.

Sự lợi ích của không trộm cướp: Về bản thân, chúng ta giữ được tâm bình thản, không lo nghĩ buồn rầu vì những ham muốn không thành, ăn ngon, ngủ yên. Về mặt xã hội, nếu không có trộm cướp thì mọi người được sống an vui, không lo sợ mất mát của cải, chiến tranh cũng sẽ không xảy ra. Muốn giữ cho giới này được tốt, chúng ta cần phải bố thí. Hạn chế:Chúng ta diệt lòng ham muốn, nhưng ham muốn thành một vị Phật thì nhất thiết phải có.

3- Không tà dâm:Không được sống đời sống trác táng ăn chơi hoang đàng. Kinh dạy rằng: Cội gốc sinh tử luân hồi, dâm dục là thứ nhất. Cư sĩ chúng ta vì hoàn cảnh phải có gia đình, sanh con đẻ cái nhưng không được hành dâm trái với luân thường đạo lý. Phương tiện tà dâm có Thân: Sống trác táng, ăn chơi, đọc xem phim ảnh nói về tà dục. Miệng: Nói những lời tà dục. Ý: Thầm nghĩ những chuyện tà dục trái luân thường đạo lý.

Phật chế ra giới này để:

A) Tiết dục: Người tu hành phải diệt dục, cư sĩ phải tiết dục, nhờ đó giữ được thân thể khỏe mạnh, trí tuệ minh mẫn, tu học càng tinh tấn.

B) Bảo vệ hạnh phúc gia-đình: Sự ngoại tình làm mất hạnh phúc, cho nên không có tà dâm thì gia đình sẽ được đầm ấm, an vui, hạnh phúc, phong tục được tốt đẹp.

C) Tránh quả báo xấu và oán thù: Tà dâm gây ra oán thù và nhất là có quả báo xấu. Người ta thường nói: "Nhứt hậu hôn, nhì điền thổ",những chuyện đàn ông đi lấy vợ người ta hay đàn bà ngoại tình, thứ nữa là cướp đoạt vườn đất của người, hai thứ này sẽ tạo thành mối thâm thù, hay gây ra án mạng.

Sự lợi ích của không tà dâm: Về bản thân, thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, tu học rất tinh-tấn, gia đình luôn luôn được an vui hạnh phúc. Về mặt xã hội không gây ra những hủ hoại cho phong tục, không tạo những mối thù hận, chém giết nhau.

4- Không nói sai sự thật: Có 4 cách nói sai sự thật:

A) Nói dối hay nói láo: Việc có nói không, việc không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải... nó gây những tác hại, thường làm cho người ta hiểu lầm, gây chia rẻ..

B) Nói thêu dệt: Việc ít mà xít ra nhiều, gây ra những sự ghen ghét, phiền não, thù hận nhau.

C) Nói lưỡi hai chiều: Đến chỗ này nói thế này, đến chỗ kia nói thế khác, thường làm cho hai bên có xích mích, mâu thuẫn càng tăng thêm lên, nhiều khi vì đó mà xảy ra mất tình hòa hiếu, đi đến xung đột với nhau bằng lời nói hay thậm chí đánh nhau, giết nhau.

D) Nói lời hung ác: Nói ra những lời thô tục, cộc cằn, chửi mắng người khác làm cho người ta buồn rầu, xấu hổ.

Vì sao Phật chế ra điều Không nói sai sự thật:

1) Tôn trọng sự thật: Đức Phật đã tìm ra chân lý tức là tìm ra sự thật cho nên Đạo Phật luôn luôn tôn trọng sự thật.

2) Vì lòng từ bi: Đạo Phật là đạo Từ Bi, nếu ta nói sai sự thật sẽ làm cho người khác đau khổ, trái với giáo lý nhà Phật.

3) Tránh quả báo xấu: Chửi mắng người, nói sai sự thật người ta làm theo, nhân quả ấy ta cũng sẽ gánh chịu.

Sự lợi ích của không nói sai sự thật: Nếu ta không nói sai sự thật, mọi người sẽ tin tưởng ta, dành cho ta sự kính phục, về mặt xã hội cũng vậy, sẽ được những người chung quanh, đoàn thể tin cậy.

Hạn chế: Nói dối là một tai họa cho bản thân và cho người khác, nhưng đôi khi cũng phải nói sai sự thật vì lòng từ bi. Chẳng hạn như người ta đi săn bắn, hỏi ta có thấy thú ở đâu không, ta nói có, họ sẽ lùng giết hại, nếu ta nói không, thợ săn sẽ bỏ đi, thú rừng khỏi chết. Vậy nói sai sự thật để cứu mạng chúng sanh, vì lòng từ bi ta nói sai sự thật thì không phạm tội.

5- Không được uống rượu :Rượu là một chất độc có hại cho sức khoẻ, làm hư trí thông minh, làm đau dạ dày. Phật chế ra điều này vì:

A) Bảo toàn hạt giống trí tuệ: Rượu sẽ làm hỏng hệ thần kinh, làm giảm sút trí tuệ vì vậy không uống rượu để bảo toàn hạt giống trí tuệ.

B) Ngăn ngừa nguyên nhân sanh ra tội lỗi: Nhiều tội lỗi chỉ do uống rượu mà sanh ra, những trận đánh nhau chỉ vì rượu vào, lời ra, kích bác nhau, sanh ra xích mích rồi đánh nhau, giết nhau. Tai nạn xe cộ xảy ra thường do uống rượu rồi gây ra.

Sự lợi ích của không uống rượu: Uống rượu dễ sinh ra nhiều thói hư, tật xấu vì vậy xã hội thường xa lánh người uống rượu. Nếu ta không uống rượu, về bản thân sẽ được mọi người kính nể, trí tuệ luôn luôn minh mẫn, ít bệnh tật, tuổi thọ càng cao. Về mặt xã hội sẽ được an vui, gia đình đầm ấm hạnh phúc, không gây cho xã hội những cảnh xấu xa.

Hạn chế: Trong trường hợp bịnh hoạn, uống thuốc ngâm rượu thì không phạm giới, bia (beer) cũng là rượu, nằm trong giới cấm.

III.- Kết luận: Sau khi thọ tam quy, người Phật tử cần phải giữ giới, nếu ta giữ được năm giới thì càng tốt, xòn bằng chưa giữ được thì trước giữ 2, 3 giới cho được nghiêm mật rồi dần dần tăng lên. Phật dạy: Sau khi Phật nhập diệt, chư tăng lấy giới luật làm Thầy. Do đó, Giới hết sức quan trọng, chúng ta cần phải giữ giới để được lợi ích cho bản thân và cho xã hội.

Sách tham khảo:

Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí, Đức Tâm Phật Pháp, THPGVN, Sàigòn, 1951

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/11/2013(Xem: 49515)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
22/10/2013(Xem: 18985)
Là người Việt Nam, bất luận bình dân hay trí thức, chúng ta đều thấy có trọng trách tìm hiểu những gì liên hệ với dân tộc và đất nước thân yêu của mình. Sự tìm hiểu ấy giúp cho chúng ta có nhận thức chính xác về tư tưởng, tánh tình đồng bào ta. Nếu là người trí thức Việt Nam mà không biết gì về truyền thống của dân tộc thì không xứng đáng là trí thức. Thế nên, sự nghiên cứu những mối liên quan với dân tộc, thực là điều kiện tối thiểu của những người yêu dân tộc, quê hương xứ sở.
09/10/2013(Xem: 12285)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.
19/09/2013(Xem: 27235)
Không biết tự khi nào, tôi đã lớn lên trong tiếng chuông chùa làng, cùng lời kinh nhịp mõ. Chùa An Dưỡng (xem tiểu sử), ngôi chùa làng, chỉ cách nhà tôi chừng 5 phút đi bộ. Nghe Sư phụ kể lại, chùa được xây dựng vào khoảng từ 1690 đến năm 1708, do công khai sơn của Hòa Thượng Thiệt Phú, người Tàu sang Việt Nam truyền giáo cùng với các thiền sư khác. Trong chuyến đi hoằng pháp vào đàng trong, Ngài đã xây dựng ngôi chùa này. Chùa nằm trên một khu đất cao nhất làng, quanh năm bao phủ một màu xanh biếc của những khóm dừa, những lũy tre làng thân thương.
05/06/2013(Xem: 4877)
Vào khoảng 4giờ chiều của ngày 10 tháng 09 năm 2003, chuẩn bị đi tụng kinh thì điện thoại lại reo. Nhấc phone để nghe và vừa niệm A Di Đà Phật, thì đầu dây vọng lại cho hay ...
01/06/2013(Xem: 20955)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
27/05/2013(Xem: 6431)
Bài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới.
25/05/2013(Xem: 10296)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
15/05/2013(Xem: 3461)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận śūnyatāvāda) và Du-già hành tông (Yogācāra) hay trường phái Duy thức (Vijñānavāda). Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến triết học Trung quán (Madhyamaka Philosophy) hay triết học Tánh không (śūnyatā). Nói chung, đương thời có ba tên gọi dành cho Tiểu thừa và Đại thừa. Ba tên gọi dành cho Tiểu thừa là Phật giáo Nam truyền (Southern Buddhism), Phật giáo Nguyên thuỷ (Original Buddhism), và Phật giáo Tiểu thừa (Hīnayāna). Ba tên gọi dành cho Đại thừa là Phật giáo Bắc truyền (Northern Buddhism), Phật giáo Phát triển (Developed Buddhism), và Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna). Hai danh xưng đầu là do các học giả Châu Âu. Bắc truyền và Nam truyền là dựa trên yếu tố địa lý. Các học giả Châu Âu cho rằng đạo Phật được truyền bá sang các quốc gia phía Bắc Ấn Độ như Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa , Nhật Bản, v.v... là Phật giáo Bắc truyền, và Phật giáo Nam truyền là đạo Phật được truyền bá đến các quốc gia
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]