Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 3: Những vấn đề liên quan đến việc tiếp nhận Thiền trước thời Heian

14/04/201114:17(Xem: 3727)
Tiết 3: Những vấn đề liên quan đến việc tiếp nhận Thiền trước thời Heian

LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN
Biên dịch: Nguyễn Nam Trân - Bản Thảo 2009

Chương 1
Giai đoạn du nhập và tiếp nhận (thời Nara và Heian)
Tiết 3: - Những vấn đề liên quan đến việc 
tiếp nhận Thiền trước thời Heian 

Qua thông tin trong tiết trên, ta đã biết đại khái việc người Nhật trước thời Heian đã tiếp nhận Thiền Tông Trung Quốc ra sao. Thế nhưng cách tiếp nhận của họ trong giai đoạn này có sự dị biệt với cách tiếp nhận của người thời Kamakura (1185 -1333). Đặc điểm của nó là tính cách ngẫu nhiên và thụ động. 

Trước tiên, nếu nhìn lại thời Nara, ta thấy việc Đạo Tuyền được mời sang Nhật hoàn toàn không có nghĩa là Thiền Tông sẽ theo gót ông mà đến nước này. Hơn nữa, dù ông có mang qua một số sách vở nói về Thiền thì cũng vì nó là một bộ phận của "tứ chủng tương thừa" trong giáo lý Thiên Thai của Nhật Bản mà thôi. Mặt khác, tư tưởng Thiền cũng chỉ nằm rải rác trong những điển tịch Phật giáo nói chung đang lưu hành bên nhà Đường và được mang sang. Nói tóm lại, không có thể nào xem người thời có ý thức rằng họ đang đón nhận Thiền như một luồng tư tưởng mới. 

Nói chung, người thời Nara khi đọc các sách về Thiền có lẽ chỉ xem như mình đang đọc sách nói về giáo lý thông thường. Trong những văn kiện Thiền Tông truyền lại từ đời đó, tác phẩm được đọc một cách khác thường có thể là Lăng Già Kinh Sớ và Lăng Già Kinh Khoa Văn, hai quyển sách chú thích, nhưng đối với Thiền Tông đời sau, đó là hai tác phẩm chẳng có gì dính dáng gì đến tư tưởng của họ nữa. Người đương thời nếu đọc thì chắc vì mong rằng nhờ tham khảo hai quyển ấy mà hiểu được ý nghĩa của Lăng Già Kinh thôi. 

Thế nhưng, việc những người có cơ hội đi lại quen biết với Đạo Tuyền và qua thực tế đó mà hiểu về Thiền, là điều ta có thể tưởng tượng dễ dàng. Thế rồi, trong đám ấy đã xuất hiện một nhân vật tên là Saichô (Tối Trừng). Vì thế, có lẽ đối với Saichô, Thiền là cái gì cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, những người thừa kế ông đã hiểu về Thiền đến mức độ nào thì vẫn là điều đáng hồ nghi. Qua hành động của Nghĩa Không (bỏ về Trung Quốc) và Gaoku Nôkô (ở lại Trung Quốc không về Nhật) thì ta có thể đặt câu hỏi phải chăng người Nhật vào thời kỳ ấy hãy còn chưa sẳn sàng để tiếp nhận Thiền Tông. Có lẽ Saichô, như một ngoại lệ, là người duy nhất vào thời đó biết tiếp nhận sự hiện hữu của Thiền. 

Thế nhưng trong thời kỳ chính trị viện sảnh, thế lực của giới võ sĩ trở nên mạnh mẻ. Khi tiếng vó ngựa chiến nghe rầm rập trên đường về phía kinh đô trong những năm loạn lạc, con người dù muốn hay không cũng bị bắt buộc trực diện với sự sống còn của mình. Và đây là lần đầu tiên, Thiền đã hiện ra trước mắt mọi người với ý nghĩa đích thực xưa nay của nó. Hành động có thiền vị của Kakua (thổi một điệu sáo thay vì trả lời) đã cho ta thấy rõ được phần nào tâm trạng đó, giống như điềm báo trước một sự tiếp nhận Thiền qui mô hơn dưới thời Kamakura. 



[1] - Paekche (Bách Tế), còn viết là Baekje, cùng với Goguryeo (Cao Câu Ly) và Shilla (Tân La) là một trong tam quốc thời cổ, đã thành lập trên đất Hàn từ năm 18 trước công nguyên, đóng đô ở Hanseong (Hán Thành). Do điều kiện địa lý gần bán đảo Sơn Đông, họ sớm nhận ảnh hưởng văn hóa đến từ Trung Quốc trong đó có Phật Giáo. Soengwang là một minh quân có công khôi phục đất nước, khích lệ Phật giáo, chủ trương giao lưu với Trung Quốc và hòa thân với Nhật, lúc ấy gọi là nước Wae. (Theo Lịch Sử Hàn Quốc, 2005, Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc Học, Huh Nam-jin chủ biên, Seoul). 

[2] - Trong triều đình Yamato (Đại Hòa) tức nước Nhật cổ, họ này nắm quyền quân sự, cảnh sát và tài phán. 

[3] - Nguyên Hưởng (Hanh) Thích Thư (Sách viết vào niên hiệu Genkô về đạo của Thích Ca), 30 quyển bằng Hán văn, kể lại truyện ký của trên 400 tăng lữ từ lúc Phật giáo đến Nhật cho tới năm Genkô thứ 2 (Nguyên Hưởng 2 tức 1322). 

[4] - Gyôki (Hành Cơ), người thời Nara, theo học Dôshô, sau đi khắp vùng chung quanh kinh đô, chuyên giáo hóa dân chúng, xây chùa chiền cầu cống, đào hồ ao, đắp đê điều.Lúc đầu bị cấm đoán vì chuyện đó bị xem như vi phạm giới luật nhưng sau được khen thưởng, gia phong đến chức tăng chính. 

[5] - Chùa do nhà nước kiến tạo để cầu cho đất nước bình yên, mùa màng được trúng. 

[6] - Dôkyô cậy công chữa bệnh trong cung, được nữ Thiên Hoàng Shôtoku (Xứng Đức, thứ 48, 718-770, trị vì 764-770) tín nhiệm, phong đến chức thái chính đại thần (tể tướng). Ông bèn mưu việc soán ngôi nhưng bị đình thần biết được, bắt bỏ ngục. Sau khi thiên hoàng mất, bị phối lưu và chết. Xin chú thích thêm là Kôken và Shôtoku chỉ là một bà nhưng làm nữ đế 2 lần. 

[7] - Hộ pháp thần (gohôshin) hay hộ pháp thiện thần (gohô zenjin): những vị thần bảo vệ Phật pháp.Đơn cử: Phạm Thiên, Đế Thích Thiên, Tứ Thiên Vương, Thập Nhị Thần Tướng, Thập Lục Thiện Thần, Nhị Thập Bát Bộ Chúng, Kiên Lao Địa Thần vv... 

[8] - Một nhà kho (kura) chưa những quốc bảo, văn thư đời xưa của Nhật, bây giờ có thể xem như viện bảo tàng đầu tiên. Kiến trúc kiểu nhà san, dài 32,7m, rộng 9m, cao 14m, sàn cao 2,5, cất bằng gỗ, vị trị nằm ở phía bắc chùa Tôdaiji ở Nara, vốn để chứa những di phẩm của Thiên hoàng Shômu và báu vật của nhà chùa. Tàng trữ trên 9000 linh kiện văn hóa liên quan đến giai đoạn thế kỷ thứ 7 và 8. 

[9] - Ma Kha Diễn chỉ là từ biểu âm tiếng Phạn mahâyâna tức đại thừa. 

[10] - Ômi no Mifune (Đạm Hải Tam Thuyền, 722-785), quí tộc, văn nhân và học giả. 

[11] - Phát xuất từ Ấn Độ, Mật giáo là một chi lưu của Phật giáo đại thừa nhưng nặng màu sắc huyền bí, bùa phép, sau lan ra đến Trung Quốc, Nepal, Tibet và Nhật Bản.Ở Nhật, nó có hai nhánh: Đông Mật (hợp lưu với Chân Ngôn Tông) và Thai Mật (hợp lưu với Thiên Thai). Đối nghịch với Hiển giáo tức là (hầu hết các giáo phái ngoài nó) chủ trương dùng văn tự để giải thích giáo lý nhà Phật.. 

[12] - Viện chính bắt đầu với Thiên hoàng Shirakawa, người có cá tính mạnh, đã nhường ngôi và đi tu mà vẫn muốn nắm giữ chính quyền. Chế độ viện chính gồm 3 thời kỳ và kéo dài khoảng 250 năm. Sau đó, trong tiếng Nhật, việc một nhà lãnh đạo đã về hưu mà vẫn muốn nắm thực quyền đều được ví von như thế. 

[13] - Tư tưởng Như Lai tạng xem mỗi chúng sinh đều chứa pháp thân, nghĩa là trong thân mình đã có sẳn khả năng giác ngộ, thành Phật (Phật tính) (TĐPH nhóm Đạo Uyển) 

[14] - Xin xem thêm công trình nghiên cứu ra đời năm 1955 của học giả người Mỹ Edwin O. Reischauer (1910-91), nguyên giáo sư các khoa lịch sử và ngôn ngữ Đại học Harvard (1950), đại sứ Mỹ ở Nhật (1961), về tập bút ký Nyuutô Kyuuhô Junreiki (Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Ký) của Ennin. 

[15] - Annen (An Nhiên) là cao tăng phái Tendai thời Heian, từng theo học với Ennin và Henjô (Biến Chiêu), sống ở Godaiin (Ngũ Đại Viện) trên núi Hieizan, chuyên tâm vào việc trước tác. 

[16] - Hieizan (Tỉ Duệ Sơn) còn gọi là Eizan (Duệ Sơn), là ngọn núi nằm hướng đông bắc thành phố Kyôto, theo thuật phong thủy ngày xưa, đóng vai trò ngọn thần sơn để trấn giữ kinh đô. Có hai ngọn Đại Nhạc và Tây Minh Nhạc cao khoảng 900m.Trên đó có ngôi chùa bản doanh của phái Tendai (Thiên Thai Nhật Bản) là Enryakuji (Diên Lịch Tự).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2022(Xem: 7773)
Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.
04/01/2022(Xem: 9424)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 5494)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
30/12/2021(Xem: 3638)
Không phải lúc nào cũng được xem là nghệ thuật như bối cảnh ban đầu vốn có, các hiện vật mà bây giờ chúng ta phân loại là “nghệ thuật Phật giáo” (Buddhist art), mặc dù có được kỹ thuật thủ công tuyệt xảo và tính thẩm mỹ sâu sắc, chúng được tạo ra với mục đích tôn nghiêm thờ phụng, sinh hoạt văn hóa tâm linh và tích lũy công đức. Giống như nhiều thuật ngữ chính của Phật giáo bị hiểu sai ở phương Tây, thì hình ảnh Phật giáo cũng vậy. Trên thực tế, việc lạm dụng hình tượng Đức Phật trở nên tràn lan, đến nỗi cộng đồng Phật giáo ở Bangkok, Thái Lan cảm thấy cần phải đặt dấu hiệu cảnh báo trên khắp thành phố để giáo dục du khách thập phương rằng "Đức Phật không phải để trang trí" (Buddha is not for decoration) một cách lạm dụng
22/12/2021(Xem: 4851)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
24/10/2021(Xem: 3523)
Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 tới, Vương quốc Phật giáo này sẽ mở cửa chào đón du khách thập phương hành hương từ 46 quốc gia, thay vì trước đây chỉ công bố 10 quốc gia có nguy cơ thấp bởi dịch Covid-19.
24/10/2021(Xem: 3305)
Hôm thứ Tư, ngày 20 tháng 10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi đã phát biểu miêu tả rằng: "Đức Phật là nguồn cảm hứng cho Hiến pháp Ân Độ đến tận ngày nay; Đức Phật luôn Ngự trong tâm hồn của nhân loại và kết nối các nền văn hóa và quốc gia khác nhau."
23/09/2021(Xem: 5475)
Bài Khảo Luận nầy nay đã in lại và trở thành CHƯƠNG MỘT của tác phẩm nầy. Chương hai có tựa đề là: VIỆT NAM PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG QUỐC. Những chương khác nghiên cứu về Phật, Bồ Tát, các Kinh, Luận...là những Kinh, Luận, Bồ Tát... rất uyên thâm, nỗi tiếng, tiêu biểu cho Giáo Lý Phật Giáo của tất cả các tông phái Phật Giáo đang hành đạo tại Việt Nam. Phần cuối của tác phẩm là những phụ lục. Trong đó 3 phụ lục đầu là 3 bài tham luận đã thuyết trình trong 3 lần hội thảo quốc tế, có ghi rõ thời gian và nơi chốn hội thảo. Những phụ lục còn lại là những bài khảo luận nghiên cứu về giáo lý Phật Giáo. Như vậy xét về nội dung tác phẩm nầy không phải là sách chuyên khảo cứu về Lịch Sử Du Nhập và Truyền Thừa của Phật Giáo Việt Nam. Mục đích của tác giả là muốn cho thế hệ người Việt Nam trẽ lưu tâm nghiên cứu sâu, tìm hiểu, phát huy những điểm son lịch sử hào hùng của Dân Tộc Việt, viết lên cho thế giới biết Dân Tộc Việt Nam có lịch sử Hào Hùng, Minh Triết về mọi thời đại, mọi lãnh vực tro
31/03/2021(Xem: 14386)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 9115)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]