Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ

20/02/201203:24(Xem: 3162)
Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ

Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ

Trần Trúc Lâm

LỜI GIỚI THIỆU

Tác phẩm “NHỮNG HỘ PHÁP VƯƠNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG LỊCH SỬ ẤN ĐỘ” của Bác sĩ Trần Trúc Lâm

nhunghophapvuong_0-contentCó không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?

Với tôi, không phủ nhận đạo lý tuyệt đối này, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm vì tính tuyệt đối mà phủ nhận tính tương đối của cuộc đời. Vì dù gì đi nữa, thân người là một hợp thể của 5 uẩn, nó chỉ nhận thức được qua những dữ liệu từ 6 trần, là những hình ảnh (biểu tượng) của sắc thinh hương vị xúc và pháp. Đồng thời, cơ thể con người chỉ tồn tại khi con người còn ăn uống, hít thở không khí… một đời người cũng chỉ trăm năm, trước và sau cuộc sống này là gì, nó vẫn còn là câu hỏi lớn cho con người. Đó là lý do tại sao đức Phật nói:

Quá khứ không truy tìm,

Tương lai không ước vọng,

Chỉ có pháp hiện tại,

Tuệ quán chính ở đây

(Trung Bộ. Kinh Nhất dạ Hiền Giả).

Nói như thế khhông đồng nghĩa phủ nhận kiếp trước hay kiếp sau, thời gian trước hay thời gian sau, nhưng dù có hay không cũng không là vấn đề quan trọng. Điểm quan trọng là hiện giờ chúng ta đang tồn tại, tồn tại với con người và hòan cảnh chung quanh nó điều mang nghĩa tương đối, hơn nữa mọi vấn đề đều bắt nguồn từ hiện tại. Do vậy, không thể lấy lý do vì mọi vật là tương đối là giả tạm mà chúng ta từ chối chúng, chúng ta lại không ăn uống…, không suy nghĩ theo một trật tự của tương đối đó, muợn nó để vươn tới một cái gì đó có ý nghĩa cho cuộc đời. Hay nói một cách khác, chúng ta không nên quá cường điệu tính tuyệt đối mà quên đi cái đạo lý tương đối.

Trong điều kiện con người và hòan cảnh sống con người là như thế, chúng ta lấy gì làm thước đo cho sự nhận thức? Theo tôi, khái niệm không gian và thời gian là nguyên tắc cơ bản để nhận thức hay đánh giá bất cứ vấn đề nào, vì không có một sự nhật thức nào lại không liên hệ đến thời gian và không gian. Có nghĩa là tách thời gian và không gian ra khỏi sự vật thì không có nhận thức, hay nói cách khác đối tượng nhận thức đó trở nên mơ hồ lẩn quẩn, giá trị nhận thức trở thành vô nghĩa, ngay cả vấn đề luân lý đạo đức, trật tự xã hội cũng không thể thiết lập. Điều đó chẳng khác nào như đặt câu hỏi khái niệm đói và no cái nào có trước cái nào có sau? Khái niệm đói và no chỉ có giá trị khi nào khái niệm thời gian và không gian đi liền với nó. Cũng vậy, khái niệm mẹ và con được hình thành chỉ khi nào trật tự về thời gian được xác định, nếu không, đứng về mặt sinh tử luân hồi thì ai là mẹ ai là con thật khó nói. Vô lý vì nghĩa tuyệt đối mà ta lại phủ nhận cái đạo lý mẹ con hay sao?

Cũng vậy, ý nghĩa về con gà sinh ra cái trứng hay cái trứng nở ra con gà’ nó chỉ có giá trị nhận thức khi nào trật tự thời gian và không gian được đi cùng. Ví dụ tháng trước tôi thấy tại nhà ông A con gà sinh ra cái trứng. Tôi được quyền nói như vậy. Nhưng một tháng sau người khác lại thấy tại nhà ông B cái trứng nở ra con gà. Người ta cũng được quyền phát biểu theo sự thấy của mình. Phát biểu như vậy không sai, vì khái niệm thời gian và không gian rất cụ thể và rõ ràng.

Nhự vậy, một cách tương đối mà nói, khái niệm thời gian và không gian là thước đo để truy tìm giá trị tương đối của sự vật, nó là cái tiêu chuẩn tương đối để thiết lập mọi nguyên tắc họat động xã hội, ngay cả luân lý đạo đức.

Đề cập đến khái niệm thời gian và không gian là đề cập đến bộ môn sử học. Bộ môn này chuyên khảo sát mối quan hệ giữa thời gian và không gian. Nói một cách dễ hiểu hơn, khi nghiên cứu hay tìm hiểu một vấn đề nào, điều kiện cơ bản cần phải xác định địa điểm và thời gian phát sinh ra nó. Mức độ xác định thời gian và không gian càng rõ chừng nào thì đối tượng nghiên cứu càng rõ ràng và đúng chừng ấy. Vì bất cứ sự kiện nào phát sinh cũng phát sinh trong một bối cảnh cụ thể, chúng có mối quan hệ và tương tác lẫn nhau. Do vậy, thời gian và không gian của vấn đề càng rõ thì đối tượng nghiên cứu càng chuẩn xác hơn.

Tác phẩm “Những Hộ Pháp Vương của Phật giáo tại Ấn độ” của Bác sĩ Trần Trúc Lâm, là một tuyển tập bao gồm những bài nghiên cứu của tác giả, chuyên khảo cứu những chủ đề quan trọng mang tính lịch sử của Phật giáo ở Ấn Độ. Ví dụ khảo cứu các bia ký của nhà vua Asoka là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong việc tìm hiểu và đánh giá nhà vua, cũng như sự phát triển Phật giáo ở Ấn Độ. Bài viết đã đã tập trung nghiên cứu về các bia đá này, khi giới thiệu về nhà vua Asoka, là việc làm hết sức cần thiết và nghiêm túc. Đây là một ví dụ mang tính điển hình, các bài nghiên cứu khác trong tác phẩm này, tác giả cũng làm việc theo tinh thần như vậy.

Tôi đã đọc qua bản thảo của tác phẩm “Những Hộ Pháp Vương của Phật giáo tại Ấn độ” của tác giả BS Trần Trúc Lâm, là tác phẩm bao gồm những bài viết có giá trị học thuật cao, mang tính nghiên cứu hơn là một tác phẩm mang tính tiểu thuyết. Nếu như cuốn tiểu thuyết hay làm cho trái tim độc giả ngất ngây phập phồng hồi hộp, thì công trình nghiên cứu này của BS Trần Trúc Lâm được trình bày trong tác phẩm này, làm cho người nghiên cứu sử lắm điều thú vị, học hỏi nhiều điều từ tác phẩm này. Tác giả tập trung trình bày vấn đề niên đại, cũng như những sự kiện phát sinh chung quanh, và tái hiện bối cảnh lịch sử của nó. Điều đó giúp cho người đọc nhận thức có hệ thống và logic hơn, góp phần làm giảm đi cách suy tư tùy tiện, thiếu cơ sở, dẫn đến lời phê bình hay đánh giá mang tính cảm tình hay chủ quan mà chúng ta thường gặp. Ở đây, tôi không có ý định bình luận vấn đề tính đúng sai của tác phẩm, vì các sự kiện xảy ra trong thời cổ đại và các chứng liệu khảo cổ và sử học vẫn còn tranh cãi, vấn đề này xin nhường lại cho các nhà nghiên cứu và học giả, ở đây tôi chỉ tán đồng và nhấn mạnh thái độ nghiên cứu nghiêm túc và phương pháp nghiên cứu hợp lý của tác giả.

Như tôi đã nói, tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo, cho thấy giáo lý của đức Thích Ca Mâu Ni rất gần gũi với đời thường và đã trải qua bao thăng trầm lịch sử. Tôi mong quí vị độc giả đọc tác phẩm này trong tinh thần ‘Uống nước nhớ nguồn’ để cảm nhận công đức to lớn của biết bao bậc cao đức, A la hán, cả những vua chúa là những vị hộ pháp, tín đồ đã gìn giữ và lưu truyền Phật pháp cho hậu thế, qua hơn 2500 năm lịch sử; đọc để biết và trân quí những tấm gương hy sinh cao cả của các đại sư chiêm bái trong việc truyền bá chánh pháp; đọc để cảm thấy gần gũi với cổ nhân. Tôi nghĩ tác giả không vì thương mại mà viết, ngược lại vì lý tưởng: phụng sự đạo pháp, phụng sự cho dân tộc, cộng thêm tính tò mò của một người quen làm việc khoa học, muốn tìm hiểu những vấn đề của Phật giáo trong quá khứ, viết lên những đắng đo suy nghĩ của mình.

Theo tôi, tác phẩm này có thể giá trị về kinh tế giới hạn, nhưng tôi tin rằng giá trị về học thuật khá cao. Nó mang tính gợi ý, giúp cho người làm công việc nghiên cứu Phật giáo Ấn Độ có thêm tư liệu, và có cái nhìn chuẩn xác hơn.

Tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm này đến độc giả trong và ngoài nước. Tôi tin tưởng rằng, người nghiên cứu sẽ cảm thấy hài lòng với tác phẩm này.

Nơi đây, tôi cũng xin cám ơn Bác sĩ đã cống hiến cho Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng một tác phẩm có giá trị học thuật.

Sài gòn ngày 16 tháng 7 năm 2007

Tỳ Kheo Thích Hạnh Bình

Giáo sư, Phật học Viện Viên Quang, Taiwan.

Mời Xem nội dung sách


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2019(Xem: 13192)
Bức Tượng Phật ngồi lưng vua độc nhất Việt Nam ở Hà nội, Vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối vì đã cư xử sai lầm với đạo Phật
19/01/2019(Xem: 4243)
Ngày nay Phật Giáo đã đi vào sinh hoạt thường nhật của người dân Mỹ một cách sâu rộng, từ những giờ phút thực hành Thiền trong quân đội, sở cứu hỏa, ty cảnh sát, trường học và công tư sở đến phương thức trị liệu tâm lý trong y học.
10/12/2018(Xem: 9812)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
26/11/2018(Xem: 6663)
4 năm học đó, chỉ là sự tiếp nối của những năm Trung cấp hay cao đẳng trước đó và nó sẽ mở ra cho quý vị, những năm học tiếp theo của hậu đại học bao gồm chương trình thạc sĩ và tiến sĩ… Nhưng, nếu trong 4 năm học này, mà những Tăng Ni sinh nào, học thiếu tinh cần, thì quý vị khó tiến xa hơn trên sự nghiệp tri thức và lại càng khó tiến xa hơn trên sự nghiệp trí tuệ.
25/11/2018(Xem: 3564)
Sắc lệnh bảo vệ đời sống và môi trường thiên nhiên ban ra cách nay 23 thế kỷ
22/10/2018(Xem: 4371)
Viết về lịch sử là một việc làm quan trọng, vì nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không có thì chắc rằng vị lai cũng sẽ không. Do vậy tìm về cội nguồn, gốc rễ của mọi vấn đề là bổn phận của người đi sau, phải tiếp nối bước chân của những người đã đi trước để nối liền dấu vết của quá khứ. Có như vậy dòng chảy của lịch sử mới luôn truyền thừa được.
20/07/2018(Xem: 11198)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
14/07/2018(Xem: 7401)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật. Nay trên trang website của nước Ấn Độ thống kê Phật giáo chỉ có 0,7 % của dân số Ấn Độ. Quý vị có thể tham khảo trang nhà nước Ấn Độ theo đường nối kết bên dưới.
18/06/2018(Xem: 11049)
Theo học giả Sthiti Das, có 12 nguyên nhân chánh như sau: 1) Giáo đoàn đồi trụy Theo thời gian, phần nhiều các giáo đoàn Phật giáo trở nên đồi trụy. Tăng lữ và tín đồ đã biến chất thành xa hoa và hưởng thụ. Họ tích trữ của cải và vàng bạc, trở nên tham lam và đua đòi vật chất. Rồi họ sống đời vô kỷ luật. Gương xấu và nếp sống bê tha của họ khiến cho dân chúng chán ghét. Người ta không thích đạo Phật nữa.
21/03/2018(Xem: 15183)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567