Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Học Về Ngày Đản Sinh

27/05/201309:09(Xem: 6508)
Tìm Học Về Ngày Đản Sinh
phatdan-title

TÌM HỌC VỀ NGÀY ĐẢN SINH
Nguyễn Phúc Bửu Tập

phatdansinh7hoasenBài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới. Còn lại ba đức tin nhiều tính cách phổ biến là đạo Cơ Đốc, đạo Hồi và đạo Phật. Hồi giáo (Islamism) dạy rằng thượng đế Allah là tất cả, uy quyền vô biên, thế nhân không thể tìm hiểu ngày sinh của ngài. Đạo Cơ Đốc (Christianism) phát xuất từ người da trắng phương Tây, ngày nay sa sút, đang tìm cách chinh phục, dụ dỗ dân nghèo lam lũ ở châu Á và châu Phi. Đạo dạy là thượng đế (chúa Cha) cho người con của ngài là chúa Jesus xuống trần gian cứu vớt thế nhân. Jesus thay mặt thượng đế, tin ngài là tin đạo, người không tin là ngoại đạo, không biết tôn giáo là gì. Thượng đế cho Jesus xuống trần ngày Noël, thay mặt ngài vì vậy ngày sinh nhật của Jesus là ngày Giáng sinh(降 生).

Đạo Phật dạy chúng ta không tin vào ý niệm thượng đế và thần thánh. Thích ca là một con người như chúng ta, có sống có chết, nhưng khác với chúng ta là Ngài đã bỏ qua tất cả đi tìm nghĩa lý của sự sống, và Ngài đã tìm được, đã giác ngộ. Ngài cũng đã được cha mẹ sinh ra, vì vậy ngày sinh của Ngài là ngày đản sinh(誕 生). Ngày nay ta đồng nhất và gọi đúng từ ngữ ngày sinh đức Phật là ngày Phật Đản.

Chúng ta có thể tóm lược chủ đề Phật Đản làm hai phần:

Phần thứ nhất, lễ đản sanh truyền thống, và phần thứ hai lễ đản sanh như ta quan niệm ngày hôm nay. Quy cách truyền thống trình bày lễ đản sinh qua hai bộ kinh quan trọng:

Bộ kinh thứ nhất thuộc Phật giáo Nam Tông, Jataka Kinh Bổn Sinhlà phần lớn nhất của Tiểu Bộ Kinh (Khuddada nikaya), gồm 547 bài, kể lại sự tích, tiền kiếp của đức Phật, giảng rõ nghiệp (karina) đời trước đóng vai trò gì trong kiếp này, áp dụng vào thân kiếp đức Phật.

Bộ kinh thứ hai thuộc hệ phái Bắc Tông, Buddhacarita Phật Sở Hạnh Tán, là một tác phẩm văn vần của Mã Minh (Asvaghosa), nói rõ vào toàn bộ cuộc đời Thích Ca, gồm 28 bài thơ (ngày nay còn lại 13 bài, chữ Phạn Sanskrit và một số bản dịch qua tiếng Tây Tạng). Kinh này rất được ưa chuộng trong dân gian ngày xưa, vì lối thơ tả cuộc đời của đức Phật rất bình dị, nhẹ nhàng và hấp dẫn.

Trong hai bộ kinh vừa kể, một thuộc Nam Tông Theravada, hai thuộc Bắc tông Mahagana, sự tích đản sinh cũng được trình bày làm hai phần: mẹ đức Phật thụ thai, và hoàng hậu sinh đức Phật ra sao.

Ta có thể tóm lược phần thụ thai như sau:

"Bốn vị hộ pháp hiện ra và nhấc bổng tấm niệm hoàng hậu Maya đang nằm, bay đến chân núi Hi Mã Lạp Sơn (hay phiên âm hỉ-mã-lạp-sơn của từ Himalaya). Lập tức bốn bà vợ của bốn vị hộ pháp đến tiếp tay, nâng hoàng hậu đến hồ Anattada, tắm gội cho ngài sạch sẽ tất cả bụi trần. Nơi tắm ở gần đền Bạc, trong đền có một tòa nhà kết vàng. Người hầu trải một tấm nệm đầu hướng về phía Đông, và hoàng hậu được mời nằm trên nệm. Vào lúc này đức Phật hoá thân thành một con voi trắng vô cùng xinh đẹp. Voi bước lên đền Bạc, đi vòng quanh tấm nệm hoàng hậu đang nằm ba lần, lấy vòi chạm vào người hoàng hậu về phía hữu và đi thẳng vào tử cung của mẹ. Đó là sự kiện hoàng hậu Maya thụ thai. Khi tỉnh giấc, hoàng hậu tâu lên đức vua giấc mộng. Các vị sư sãi đồng tấu:

"Xin Hoàng Thượng an tâm, Hoàng Hậu sẽ sẽ sinh được một hoàng tử. Và nếu sau này hoàng tử tiếp tục sống trong cung điện, người sẽ trở thành một đấng minh quân. Nhưng nếu hoàng tử từ giã cung điện Ngài sẽ trở thành một vị Phật, giải tỏa mọi điều u muội và tội lỗi cho tất cả chúng sinh trong cõi đời. Vua Tịnh Phạn vui mừng, và 32 phép thần diệu xẩy ra. Thế giới 10 phương rung động, nấc lên và rung rẩy từng cơn. Lửa bừng cháy trên mọi ngọn đồi, trong khoảnh khắc mọi người ốm đau đều tìm lại đuợc an bình, mọi cây đàn không gảy mà rung rinh tiếng nhạc, nước trong bốn bể trở nên dịu ngọt và toàn thế giới ta bà được kết dãi bằng chùm hoa đẹp.

Tại vườn Lâm Tì Ni, giữa rừng cây bồ hòn hoàng hậu hạ sinh thái tử. Khi hoàng hậu chuyển bụng, ngài đau vói tay tìm một cành cao để đứng cho vững thì cành cây tự nhiên khum xuống cho ngài vịn. Hoàng hậu tay vịn nhánh cây cao, ở thế đứng hạ sanh thái tử. Đức Phật từ dạ con của mẹ ra đời như một vị thầy từ ghế giảng bước xuống, duỗi hai tay, duỗi hai chân xuống sàn đất, bước bảy bước về hướng Bắc, đầu đội chiếc vòng trắng, mắt nhìn bốn phương, xướng giọng như ngọc: "Ta là chúa tể mười phương, ngự trị muôn loài, và đây là lần tái sinh cuối cùng của ta."

Tiếp theo, kinh tả mọi điều mầu nhiệm lúc đức Phật lớn lên trong cung điện, ngài sống bên những thiếu nữ xinh đẹp chiêm ngưỡng ngài khi ngài dạo chơi. Kinh tả lại tỉ mỉ mọi điều xẩy ra trong thời thơ ấu của đức Phật.

Dĩ nhiên người chép kinh không bao giờ xem các biến cố vừa kể có tính cách huyền bí và truyền thuyết.

***

Bây giờ ta tìm đọc một bản tiểu sử mới, nói về ngày sanh của đức Phật, cũng đến từ miếu đường, do chính phủ nước cộng hoà Tích Lan/Sri Lanka, quốc gia thờ đạo Phật làm quốc giáo, bổn Phật Đản đã được chính thức phổ biến tại học đường và tại các nơi thờ phụng. (Manual of Buddhism, published by the Government of Sri Lanka, Colombo, 1990)

"Vào ngày trăng tròn tháng Năm, 623 năm trước Tây lịch (quốc gia Tích Lan cũng dùng Tây lịch, chú thích của người viết), tại quận Nepal, sinh ra đời một vị hoàng tử họ Ҫakya (Thích) tên là Gotama (Cổ Đàm). Vua cha là Suddhodana (Tịnh Phạn), mẹ là hoàng hậu Maya Maya (Ma Dza). Sinh con được vài ngày hoàng hậu qua đời và đứa bé được người em của hoàng hậu Maha Pajapati (Ma Kha Ba Xa Đề) chăm sóc nuôi dưỡng. Đến tuổi mười sáu, thái tử kết hôn với một người em họ xinh đẹp là công chúa Yasodhara (Dza Thâu Đà La). Đời sống tiếp tục trong mười ba năm hôn lễ, gia đình thái tử sống trong nhung lụa, thái tử hoàn toàn không biết tới những điều bất hạnh ngoài cung điện. Nhưng qua thời gian, thái tử dần dần hiểu những khổ đau của đời sống con người. Năm 29 tuổi, thái tử làm cha, công chúa sinh được con trai Rahula (La Hầu La). Thái tử xem con người là một bước cản trên đường tìm chân lý, vì Ngài thấu hiểu mọi chúng sanh đều phải sống trong vòng sinh lão bệnh tử. Thái tử quyết tâm tìm một lối thoát cho nỗi khổ đau không phải cho riêng mình và của mọi chúng sinh. Vì vậy Ngài rời bỏ đời sống vương giả, một đêm Ngài xuống tóc đi tu, quyết tìm chân lý của sự sống."

Như vậy ta đã lướt qua hai hình thức trình bày Phật Đản. Hình thức thứ nhất của người xưa, đầy thần bí huyển hoặc, do trí tưởng tượng của người tin Phật hư cấu. Đức Phật được xem như là một nhân vật siêu phàm, có nhiều kỳ vĩ, thời gian và không gian un đúc nên ngày sanh và các giai đoạn của cuộc đời đức Phật phần lớn không có cơ sở thực tế. Cách mô tả Phật Đản như thế này bây giờ không còn ai tin, mà nếu xung quanh ta còn có người tin thì người dân bình thường xứ ta gọi những người tin đó, một cách nôm na, và xin lỗi, có vẻ quê mùa là những người tin Phật "bà già trầu." (!)

Đúng thế chăng? Trên thực tế, nếu không có những người tin vào huyền thoại, liệu trong hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, bị bao nhiêu thế lực bên ngoài dầy xéo, đạo của Thích Ca có còn tồn tại đến bây giờ chăng? Từ thế kỷ thứ Tám Tây lịch, Phật giáo bị quân Hồi giáo xua đuổi khỏi đất Ấn Độ là nơi chôn nhau cắt rốn của đạo Thích Ca ("Giết quân tà đạo, chôn lũ trọc đầu"), đạo Phạt phải tìm con đường sống lên phương Bắc với người Trung Đông và người Trung Hoa, phát triển mạnh trong các dân tộc Trung Hoa và các dân tộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa (Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam...). Đi về hướng Đông, đạo Phật hòa đồng với các dân tộc Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, quần đảo Nam Dương và dưới triều Đại Đường bên Tàu, đạo Phật đã chinh phục một nửa người sống trên trái đất. Rồi đến thế kỷ Mười Sáu, Mười Bảy Tây lịch, một cuộc tàn phá đạo Phật khủng khiếp hơn do người da trắng và đạo Gia Tô. Giáo hoàng Alexander VI, rất hư đốn lại làm đại diện cho Thượng đế, ban hành huấn lệnh Patroado, chia thế giới ra làm hai (vị giáo hoàng lấy bút chì gạch một đường chia thế giới ra làm hai, và lúc đó chưa biết thế giới hình tròn!) một nửa cho Bồ Đào Nha và một nửa kia cho Tây Ban Nha để chinh phục linh hồn, thật ra là chinh phục đất làm thuộc địa. Trong phạm vị rất nhỏ và hết sức đau thương của đất nước Việt Nam ta, người Pháp không tuân hành huấn lệnh Patroado nhưng những tên thực dân đội lớp nhà tu như Pigneau de Béhaine, như Alexandre de Rhodes đã dẫn quân viễn chinh da trắng xâm chiếm đất nước ta, đặt ách thống trị Pháp lên đầu dân tộc ta hơn một trăm năm, để cho quân da trắng thả cửa đập phá chùa chiền.

Cũng là đức tin mà người ta đùa "đạo bà già trầu" nói ở trên đã xây dựng lên các công trình kiến trúc làm kiêu hãnh và vinh dự cho loài người như quần thể các ngôi chùa Borobudur, Mendut, Pawon (Borobudur Temple Compounds) tại Nam Dương, như đền Angkor Vat tại Cao Miên, Đông Đại Tự tại Nhật, cung điện Potala tại Tây Tạng, động Đôn Hoàng tại Trung Hoa và hàng trăm nghìn ngôi chùa, ngôi đền khác mà bàn tay nhỏ bé của con người đã xây dựng nên nơi thờ phượng đức Phật.

Hình thức thứ hai miêu tả Phật Đản, đượm màu lý trí, gần với chúng ta ngày nay hơn. Gạt sự tích thần thoại sang một bên, đạo Phật đã thấm vào tim óc của giới trẻ, đặc biệt là người trẻ trí thức trong thế giới Tây phương. Riêng tại Hoa Kỳ số trí thức người Mỹ trong thập niên 1980 được công bố là 7 triệu, và năm 2000 là 10 triệu. Gần 1 triệu người gốc Việt sống tại California đã phải nghĩ đến niềm vinh hạnh là vị Thống đốc hiện tại, ông Jerry Brown là một người theo đạo Phật. Kỷ niệm ngày Phật Đản, ta nhớ đến câu nói của Albert Einstein: "...Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được với các nhu cầu của nền khoa học hiện đại, thì chính là đạo Phật. Phật giáo không hề cần phải tu chính quan điểm giáo lý để theo được khoa học vì Phật giáo vừa bao gồm khoa học và vừa vượt xa khoa học nữa.(If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to surrender its views to science, because it embrasses science as well as goes beyond science).

Bài tìm học nhỏ này cũng nhằm mục đích nhắc nhở các bạn trẻ sống xa quê hương đang suy nghĩ và tìm kiếm những di sản truyền thống của cha ông chúng ta ngày xưa đang bị những người cộng sản ở Ba Đình chủ trương "khoa học hóa con người" làm tiêu diệt dần mòn. Chúng ta cũng nên nhìn nhận là các tài liệu nghiên cứu dữ kiện xã hội và tín ngưỡng ở xứ ta rất nghèo nàn. Suốt hơn một thế kỷ sống dưới ách đô hộ khắc nghiệt của người da trắng Pháp với sự tiếp tay khinh mạn và chà đạp của giáo sĩ Gia Tô xem dân bản xứ là "ngoại đạo" - tức là không biết tôn giáo là gì!! thì làm sao có những cuộc tìm hiểu tín ngưỡng bản địa.

Lại nữa, tiếp theo cuộc sống nô lệ là cuộc chiến đấu điêu tàn triền miên giữa bên thiện và bên ác. Cộng sản miền Bắc vì lợi ích của bè đảng cương quyết áp đặt đường lối "bác đi!!" trên toàn quê hương, thử còn ai có thì giờ và phương tiện tìm học hiểu cặn kẽ các sinh hoạt tín ngưỡng, như lề lối và ý nghĩa các phong tục đã dày nghìn năm trên đất nước.

Tại Hà Nội ngày nay đã có một viện Quốc Học, chuyên nghiên cứu những vấn đề khoa học xã hội. Ta đoán chắc phải có phần cho việc tìm hiểu các tín ngưỡng và phong tục thực hiện các tín ngưỡng đó, cho dù nhà cầm quyền có chủ trương loại bỏ Tự Do Tôn Giáo ra khỏi đời sống nhân dân. Ở ngoài nước cũng vậy, ước mong các bạn trẻ dùng chất xám của mình làm phương tiện yểm trợ cho sự nghiên cứu vốn rất phong phú tại đất Mỹ và thế giới Tự Do, kể cả các công trình dã ngoại, để cho các sinh hoạt xưa như việc thiết trí một bàn thờ (chỉ đơn cử một chi tiết nhỏ trong cách thiết lập hoàn chỉnh một bàn thờ Tổ Quốc và các vị Anh Hùng Tử Sĩ vị quốc vong thân theo di sản truyền thống mang theo từ trong xã hội Miền Nam Tự Do) khỏi phải bị quên lãng trong một tương lai rất gần. Mong lắm thay!

(Xin liên lạc E-Mail: [email protected] để có bài viết này hay bài viết khác của tác giả Bửu Tập)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2019(Xem: 15758)
Bức Tượng Phật ngồi lưng vua độc nhất Việt Nam ở Hà nội, Vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối vì đã cư xử sai lầm với đạo Phật
19/01/2019(Xem: 4713)
Ngày nay Phật Giáo đã đi vào sinh hoạt thường nhật của người dân Mỹ một cách sâu rộng, từ những giờ phút thực hành Thiền trong quân đội, sở cứu hỏa, ty cảnh sát, trường học và công tư sở đến phương thức trị liệu tâm lý trong y học.
10/12/2018(Xem: 11110)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
26/11/2018(Xem: 7535)
4 năm học đó, chỉ là sự tiếp nối của những năm Trung cấp hay cao đẳng trước đó và nó sẽ mở ra cho quý vị, những năm học tiếp theo của hậu đại học bao gồm chương trình thạc sĩ và tiến sĩ… Nhưng, nếu trong 4 năm học này, mà những Tăng Ni sinh nào, học thiếu tinh cần, thì quý vị khó tiến xa hơn trên sự nghiệp tri thức và lại càng khó tiến xa hơn trên sự nghiệp trí tuệ.
25/11/2018(Xem: 4011)
Sắc lệnh bảo vệ đời sống và môi trường thiên nhiên ban ra cách nay 23 thế kỷ
22/10/2018(Xem: 4859)
Viết về lịch sử là một việc làm quan trọng, vì nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không có thì chắc rằng vị lai cũng sẽ không. Do vậy tìm về cội nguồn, gốc rễ của mọi vấn đề là bổn phận của người đi sau, phải tiếp nối bước chân của những người đã đi trước để nối liền dấu vết của quá khứ. Có như vậy dòng chảy của lịch sử mới luôn truyền thừa được.
20/07/2018(Xem: 13865)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
14/07/2018(Xem: 8624)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật. Nay trên trang website của nước Ấn Độ thống kê Phật giáo chỉ có 0,7 % của dân số Ấn Độ. Quý vị có thể tham khảo trang nhà nước Ấn Độ theo đường nối kết bên dưới.
18/06/2018(Xem: 11651)
Theo học giả Sthiti Das, có 12 nguyên nhân chánh như sau: 1) Giáo đoàn đồi trụy Theo thời gian, phần nhiều các giáo đoàn Phật giáo trở nên đồi trụy. Tăng lữ và tín đồ đã biến chất thành xa hoa và hưởng thụ. Họ tích trữ của cải và vàng bạc, trở nên tham lam và đua đòi vật chất. Rồi họ sống đời vô kỷ luật. Gương xấu và nếp sống bê tha của họ khiến cho dân chúng chán ghét. Người ta không thích đạo Phật nữa.
21/03/2018(Xem: 17500)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]