Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phụ lục

09/05/201311:09(Xem: 8610)
Phụ lục
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Phụ Lục

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt. Thượng tọa Thích Nguyên Tạng


Pháp Sư Huyền Trang viết về sự phân bố của các bộ phái Phật giáo ở Ấn-độ (629-645 Tây-lịch)

Trong phần giới thiệu của tác phẩm viết về tình trạng Phật giáo ở Ấn-độ, Pháp sư Huyền Trang nói rằng vào thời của ngài, tức là thế kỷ thứ bảy Tây-lịch, Phật giáo thuần túy hay có sự pha trộn là tùy thuộc vào trí tuệ và căn cơ của các tín đồ. Sự chia rẽ đầu tiên trong Tăng đoàn diễn ra ở thành phố Vaisali giữa Phái Trưởng Lão (Sthavira) và Phái Đại Chúng (Mahasanghikas). Cả hai phái đều chấp nhận ba Tạng Kinh Điển, nhưng phái Đại chúng có thêm một tạng thứ tư goi là “Vyakarama” (Thọ Ký Kinh) ghi lại những lời dạy về tương lai của Đức Phật. Giáo thuyết của hai phái này làm cho họ chia rẽ nhau, và trở thành đề tài tranh luận trong số những luận điểm của các chi phái. Phái nào cũng cho mình là siêu đẳng về mặt tri thức. Có “nhiều cuộc thảo luận ồn ào”, nhưng bên cạnh đó cũng có những vị tăng ngồi thiền, đi kinh hành, thường là nhiểu quanh một bảo tháp hay một ngôi chùa, đứng yên hay nằm. Sau khi nhận xét chung như vậy, pháp sư Huyền Trang tiếp tục kể về tình trạng PG ở những địa phương khác nhau, nói đến một số tăng sĩ và tu viện, cũng như các chi phái. Sau đây là phần tóm lược về những địa điểm mà pháp sư Huyền Trang đã đi qua trong cuộc hành hương chiêm bái Phật tích của Ngài ở Ấn-độ.

Địa điểm đầu tiên ở Ấn-độ mà ngài Huyền Trang viếng thăm là Udyana (=Ujjana) trong thung lũng Swat, bấy giờ là bốn quận Panjkora, Bijawar, Swat và Buniz, ở phía Bắc của thành Peshawar (Parashawar).Dân chúng ở nơi này tôn sùng PG và là những tín đồ thuần thành của Đại Thừa. Trước đó đã có 140 tu viện với 18.000 tăng sĩ, nhưng tất cả đã bị hư hoại và chỉ còn một ít tăng sĩ. Cao Tăng Pháp Hiển viết rằng họ là những người theo Đại Thừa nhưng hành trì giới luật Tiểu Thừa. Ngài Huyền Trang nhận thấy các tăng sĩ biết tụng kinh nhưng không hiểu nhiều về ý nghĩa thâm diệu của kinh. Ở đó có bốn hay năm ngôi làng, trong số ấy có một làng tên là Mang-kil. Cách làng Mang-kil khoảng 200 dặm có tu viện Mahavana, ở gần tu viện này là bảo tháp Rohitaka. Tại đây ngài Huyền Trang đã tìm thấy năm bản Luật của năm bộ phái gồm Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka), Hóa Địa Bộ (Mahisasaka), Ẩm Quang Bộ (Kasyapiya), Nhất thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) và Đại Chúng Bộ (Mahasanghikas).

Darel, thủ đô cũ của chính quyền Udyana, được nhà nghiên cứu Cunningham coi là xứ của người Dard. Trong thung lũng này có một bức tượng Quán Thế Âm (Avalokitesvara) được dựng lên để kỷ niệm nhà truyền giáo Madhyantika. Sau khi bức tượng được dựng, PG trở nên phổ thông ở xứ này. Nhà nghiên cứu Cunningham cũng viết rằng tượng Phật ở đây rất lớn.

Bolor, khoảng 130 cây số ở bên kia sông Indus. Được Cunningham đồng hóa với xứ Balti hay Tiểu Tây Tạng. Ngài Huyền Trang nhận thấy ở đây có một số tu viện và tăng chúng, họ không học và cũng không gìn giữ giới luật.

Taksasika, (nay là Taxila, Pakistan). Vị trí của xứ này như sau: ở hướng bắc là Urasa, ở hướng đông là thành Jhelum, ở hướng nam là thành Simhapura, và hướng tây là sông Indus. Cunningham nhận thấy thành phố này chính là phế tích gần Shah-Dheri (hoàng cung), cách thành phố Rawalpindi 19 cây số về phía tây bắc. Ở đây có di tích của ít nhất là 55 bảo tháp, 28 tu viện, 9 ngôi chùa, một tấm đồng khắc tên “Taksasila” và một cái bình khắc chữ Kharosthi. Ngài Huyền Trang nới tới Trưởng Lão Santaraksita và vị thầy thuộc Kinh Lượng Bộ (Sauntrantika) tên là Kumaralabdha, hai vị đã sống ở tại nơi đây.

Pháp sư Huyền Trang đến xứ này hai lần, một lần vào năm 630 Tây-lịch, trên đường đi tới xứ Phật, và một lần vào năm 645, khi trở về Trung Hoa. Ngài trông thấy nhiều tu viện, nhưng tất cả đều hoang tàn. Một ít tăng sĩ mà ngài gặp đều là người Đại Thừa. Dân chúng ở đây theo PG. Hoàng Đế Asoka đã cho Hoàng Tử Kunala tới đây dẹp loạn, tái lập an ninh trong vùng. Nhưng Hoàng tử đã bị mù vì âm mưu của mẹ ghẻ là Tisyaraksita. Sau đó mắt của ngài được La Hán Ghosa chữa lành. Ngài Ghosa là y sĩ và cũng một nhà huyền bí học (theo Divyavadana XXVII).

Theo truyền thuyết, vua xứ Taksasila rất giàu, có tới chin mươi triệu đồng tiền vàng và bạc. Vua Bimbisara mời vị vua này tới viếng thăm Đức Phật. Khi gặp Phật, vị vua đã quy y và xuất gia, nhưng không may trên đường trở về, ông đã chết vì tai nạn. Vị vua này đã cúng dường nhiều tài sản để xây dựng bảo tháp thờ xá lợi mà Hoàng Đế Asoka phân chia sau đó


(còn tiếp, sẽ đăng toàn bài sau)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 3579)
Khao-khát cái tuyệt-đối, khinh-thường cái cái trương-đối; mong cầu cái vĩnh-viễn trường-tồn, ruồng-bỏ cái biến-chuyển vô-thường, người Viêt-Nam nói riêng và người Á-Châu nói chung đã được huân-tập mấy ngàn năm trong một thái-độ tư-tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biên-chuyển vô-thường của sự thế, mà mục-đích là mong ghi chép một cách trung-thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời-gian.
09/04/2013(Xem: 15525)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 14977)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3505)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 16157)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 4022)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 13647)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 4265)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 6348)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 8763)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]