Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 7: Giáo điển của tông phái nhóm III

09/05/201311:05(Xem: 9023)
Chương 7: Giáo điển của tông phái nhóm III
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Chương 7: Giáo Điển Của Tông Phái Nhóm III

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt. Thượng tọa Thích Nguyên Tạng


Gồm Các Bộ Phái Mahasasaka, Phái Sarvastivada, Phái Dharmaguptaka và các Phái khác

Theo truyền thống Pali thì nhóm III bao gồm phái Hóa Địa Bộ (Mahimsasaka) và các chi phái của bộ phái này tức là Pháp Tạng Bộ (Dhammaguttika, Nhất thiết Hữu Bộ (Sabbatthivadin), Aåm Quang Bộ (Kassapika), Thuyết Chuyển Bộ (Sankantika), và phái Suttavadin. Theo truyền thống Pali thì Hóa Địa Bộ là chi phái đầu tiến tách ra khỏi Trưởng Lão Bộ trong số các chi phái của phá này. Rồi từ Hóa Địa Bộ phát triển chi phái Nhất thiết Hữu Bộ và dần dần là các chi phái khác. .Luận sư Vasumitra nói hơi khác về sự xuất hiện của các bộ phái thuộc nhóm III này. Ngài cho rằng Sarvastivada là chi phái tách ra khỏi Trưởng Lão Bộ trước nhất, rồi sau đó mới tới các chi phái Mahimsasaka, Kasyapia và Samkrantivadin, cách nhau một thế kỷ. Phát xuất từ Mahimsasaka là chi phái Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptakas). Như vậy truyền thống Pali chỉ khác ý kiến của Luận sư Vasumitra ở chỗ truyền thống này cho rằng chi phái Mhimsasaka xuất hiện trước nhất. Sự khác biết có thể được giải thích như sau: Một tài liệu nói về giáo thuyết của chi phái này cho thấy có hai phái Hóa Địa Bộ, mộtphái xuất hiện trước và một phái xuất hiện sau. Khi liệt kê các chi phái, luận sư Vasumitra đã bỏ sót phái Hóa Địa Bộ xuất hiện trước. Tuy nhiên ngài nói rằng những người theo Hóa Địa Bộ đầu tiên có cùng ý kiến nhiều hơn so với Trưởng Lão Bộ, còn phái Sarvastivada hơn. Có lẽ truyền thống Pali chỉ biết tới chi phái Hóa Địa Bộ xuất hiện trước, vì vậy tất nhiên truyền thống này xếp phái Hóa Địa Bộ trước phái Sarvastivada. Phái Mahisasakas xuất hiện trước: Phái Mahisasakas đã xuất hiện từ thời kỳ có cuộc Kết Tập Thứ Nhất, như vậy phái này có trước phái Đại Chúng. Các sách thuộc Luật Tạng của Trưởng Lão Bộ ghi nhận sự khác biệt về ý kiến của Phái Mahisasakas và Pháp Tạng Bộ – Vì liên quan đến bảy giới điều của Hóa Địa Bộ và tám giới điều của Pháp Tạng Bộ - giữa Trưởng lão Đại Ca Diếp (Mahakassapa) và Trưởng lão Purana người xứ Dakkhinagiri (gần thành Rajagarha). Luật Tạng của Hóa Địa Bộ đặc biệt coi trọng Trưởng lão Purana là người nhất quyết đòi tổ chức một cuộc soạn thảo Kinh điển thứ nhì mà phái này cho là phù hợp với đề nghị của Trưởng lão Đại Ca Diếp, với việc đưa vào Luật Tạng bảy giới điều về thực phẩm. Điều này cho thấy rõ ràng Trưởng lão Purana và các đệ tử đã tự tổ chức thành một nhóm mà có lẽ lúc đó chưa được biết với danh hiệu là Mahisasaka. Giáo sư Przyluski đã nói về sự xuất hiện này trong tác phẩm “ Cuộc Kết Tập ở Rajagrha (trang 319) của ông, dựa theo những văn bản Luật Tạng của hai phái Mahisasaka và Pháp Tạng Bộ bằng tiếng Trung Hoa.


(còn tiếp, sẽ đăng toàn bài sau)








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 3579)
Khao-khát cái tuyệt-đối, khinh-thường cái cái trương-đối; mong cầu cái vĩnh-viễn trường-tồn, ruồng-bỏ cái biến-chuyển vô-thường, người Viêt-Nam nói riêng và người Á-Châu nói chung đã được huân-tập mấy ngàn năm trong một thái-độ tư-tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biên-chuyển vô-thường của sự thế, mà mục-đích là mong ghi chép một cách trung-thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời-gian.
09/04/2013(Xem: 15525)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 14977)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3505)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 16159)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 4022)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 13647)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 4265)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 6348)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 8763)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]