Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ, Sri Lanka

08/01/202215:27(Xem: 7598)
Khái lược Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ, Sri Lanka
 




Khái lược
Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ, Sri Lanka

(龍喜國際佛教大學概略)


 

Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.

 

Năng lượng giáo dục đào tạo tuyệt vời này, đã được thực hiện bởi một số lượng lớn các trung tâm học tập ở các nước châu Á. Do các điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa khác nhau, giáo dục Phật giáo đã trở thành một phần của hệ thống giáo dục hiện đại, có thể được giới thiệu như là một nơi phát triển trí tuệ “Duy tuệ thị nghiệp”.

 

Hàng triệu trang sách, bản dịch, các công trình nghiên cứu được công bố và những thư tịch quý báu này vẫn còn lưu giữ trong các thư viện của các ngôi trường Đại học Phật giáo.

 

Đại học Phật giáo Quốc tế Long Hỷ (Nāgānanda International Institute for Buddhist Studies, 龍喜國際佛教大學, NIIBS) tọa lạc trong khuôn viên ngôi già lam cổ tự Manelwatta, Bollagala, Kelaniya, Sri Lanka là một trong những trường Đại học Phật giáo Quốc tế thứ 10 trên thế giới, lần đầu tiên sau 800 năm lịch sử giáo dục Phật giáo. Đầu kỷ nguyên Tây lịch thứ nhất cho đến thế kỷ 13, có 9 ngôi trường Đại học Phật giáo trên thế giới. Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda được thành lập vào thế kỷ 21.

 

Khu đất đẹp như một bức tranh trong khuôn viên ngôi già lam cổ tự Manelwatta rộng 40 héc ta, được Cư sĩ J. R. Jayewardene (1906-1996), đệ nhị Tổng thống nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka và đệ nhất phu nhân Elina Jayewardene (1913-2007) đã cúng dường để góp phần giáo dục đào tạo tăng tài.

 

Theo tài liệu lịch sử ghi chép, vùng đất này trước đây gọi là “Rajawatta” nằm trong khu vực được đức Quốc vương Naga Maniakkitha cúng dường trong chuyến viếng thăm “Kelanipura” của đức Phật.

 

Sở hữu đất đai này, trước tiên được dâng cúng cho ngôi già lam cổ tự Welivita Sangaraja, nơi Hòa thượng Kandakkaliye Dhammakiththi Nayaka thera trụ trì, người đã khởi xướng các hoạt động phật sự phát triển ngôi già lam cổ tự này. Sau khi Hòa thượng Kandakkaliye Dhammakiththi Nayaka thera già yếu, Hòa thượng Kirinde Sri Dhammananda Nayaka Thera, trụ trì ngôi già lam Sri Lanka Maha Viharaya tại Malaysia đề nghị cử Thượng tọa Tiến sĩ Bodagama Chandima Thera, Tăng trưởng Phật giáo Tăng già Sri Lanka tại Đài Loan làm trụ trì ngôi già lam cổ tự Manelwatta vào năm 2002, và chịu trách nhiệm trong việc kế tục phát triển phật sự nơi đây.

 

Do cam kết, Thượng tọa Tiến sĩ Bodagama Chandima Thera đã có thể thiết lập nhiều nhân sự trợ lý, một học viện cung cấp các chương trình ngắn hạn về nghiên cứu Phật học, một học viện tỳ kheo ni và một bệnh viện Ayurvedic. Bước đầu tiên thành lập Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda, Viện Nghiên cứu Phật học Quốc tế Nāgānan được đặt đá xây dựng vào tháng 08 năm 2013 và dự kiến hoàn thiện vào năm 2016.

 

Công trình xây dựng Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda bao gồm giảng đường, tòa nhà hành chính, thư viện và hội trường lớn với sức chứa 1.500 chỗ. Ngoài ra, còn có khu ký túc xá có thể cung cấp chỗ trọ cho 750 chư tăng, nam và nữ sinh viên. Viện Phật học đã được sự chấp thuận của Bộ Giáo dục, hệ Đại học Sri Lanka vào tháng 12 năm 2015.

 

Ngôi trường Đại học Phật giáo này còn có chỗ lưu trú tạm thời cho khoảng 300 sinh viên ngoại quốc học tập tại Sri Lanka. Các sinh viên đến từ các quốc gia Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Hồng Kông và Trung Quốc...

 

Sau khi hoàn thành, Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda sẽ gồm các khoa: Phật giáo và Triết học, Y dược, Khoa học xã hội, Phật giáo nhập thế, Phật giáo cổ đại.

 

Khoa Nghiên cứu sinh Đào tạo sau đại học

 

Mục tiêu cơ bản của khoa nghiên cứu sinh đào tạo sau đại học là mở rộng chân trời mới của nghiên cứu Phật học, nhấn mạnh đồng đều về các khía cạnh lý thuyết và thực tiễn, thông qua các nghiên cứu chuyên sâu và nghiên cứu liên quan chặt chẽ đến các nguồn chính và minh bạch của các nguồn khác. Hơn nữa, các chương trình nghiên cứu sinh sẽ không bị giới hạn trong các lĩnh vực truyền thống và các môn học được nghiên cứu chủ yếu trên cơ sở lý thuyết ở hầu hết các trường đại học và cơ sở giáo dục bậc cao tại Đảo quốc Phật giáo Sri Lanka.

 

Các chủ đề nghiên cứu sẽ được lựa chọn phù hợp trên yêu cầu của xã hội hiện đại, bởi một số lượng lớn, các nghiên cứu được thực hiện tại các trường đại học và viện nghiên cứu hiện nay, chỉ có thể tạo ra sự nghi vấn trong phát triển trí tuệ. Dường như họ không đóng góp nhiều cho sự phát triển thể chất, tinh thần, xã hội và đạo đức tâm linh của nhân loại, vốn là mục tiêu chính của Phật giáo đáp ứng nhu cầu này rất sớm.

 

Các vị học giả Phật giáo cổ đại đã kết hợp một số chủ đề liên minh vào hệ thống giáo dục và văn hóa Phật giáo để đạt được mục đích ban đầu của Phật giáo là phát triển nhân loại. Vì vậy, các môn học như Āyurveda, Chiêm tinh học, Nghi lễ, Nhạc lễ, các truyền thống tôn giáo khác, Nghệ thuật và Kiến trúc, Nông nghiệp, Lão khoa, Thực phẩm và Dinh dưỡng, v.v. trong các chương trình khoa nghiên cứu sinh đào tạo sau đại học sẽ được học tập và nghiên cứu liên quan đến triết học và văn hóa Phật giáo. Không nghi ngờ gì nữa, sự nỗ lực cao cả này sẽ đóng góp tích cực vào sự phát triển xã hội trong bối cảnh toàn cầu và sẽ mang lại một phẩm giá đáng kinh ngạc cho đất mẹ Sri Lanka.

 

Các khoa truyền thống hệ Phật giáo:

 

Hệ Pali và Sanskrist (Phạn) – Khoa nghiên cứu hệ Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.

 

I. Hệ Phật giáo Pali:

 

- Lịch sử của văn học Pali ở các quốc gia Phật giáo Ấn Độ, Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia.

 

- Kinh tạng Pāli – chữ cái, tầm quan trọng, cấu trúc, nội dung.

 

- Chú giải văn học Pāli - Aṭṭakthā, Tika, Saṅgahagantha, Ganṭhipada, Nigandu, Parikathā .

 

- Văn học Phật giáo dân tộc Sinhalese - Các tác phẩm Paraphrase sáng tạo, Các tác phẩm xuất bản.

 

- Văn học Pāli ở các quốc gia Phật giáo Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Lào.

 

- Các bản thảo Pāli ở Sri Lanka.

 

- Pāli Grammar: Tất cả các khía cạnh của ngữ pháp truyền thống Pāli với các truyền thống của Kaccāyana, Moggallāyana và Saddanīti (Burmese). Cách tiếp cận ngôn ngữ học về ngữ pháp Pāli với các tác phẩm hiện đại.

 

- Thành phần và dịch thuật: Thành phần của văn xuôi Pāli và các bài thơ liên quan đến Vuttodaya và Subodhālaṅkāra. Dịch Pāli của văn xuôi và thơ.

 

II. Hệ Phật giáo Sanskrit (Phạn):

 

- Lịch sử văn học Phạn ngữ Ấn Độ và Sri Lanka.

 

- Văn hóa Vedic (Veda) (1600-600 trước kỷ nguyên Tây lịch) giới thiệu văn học

cổ điển tiếng Phạn.

 

- Giới thiệu văn học Phạn ngữ.

 

- Văn học Phật giáo tiếng Phạn - Tôn giả Mahāyāna Sanskrit, nguồn Vaipulyasūtras Mādhyamaka, nguồn Vijñānavāda, nguồn Tantrayāna.

 

- Sansrit Grammar: Tất cả các khía cạnh của ngữ pháp tiếng Sanskrit có liên quan đến Sārasvata.

 

- Các văn bản Phạn ngữ.

 

- Các nguồn gốc về Phạn ngữ.

 

- Nghệ thuật của Phật giáo; Nguồn Sanskrit liên quan đến nghệ thuật chuyên nghiệp - ví dụ như Chiêm tinh, Āyurveda, Âm nhạc, Nghệ thuật và Kiến trúc, Thơ ca.

 

- Cách tiếp cận ngôn ngữ học đối với ngữ pháp tiếng Sanskrit liên quan đến các tác phẩm hiện đại.

 

- Thành phần và dịch thuật: Thành phần văn xuôi và thơ của tiếng Phạn liên quan đến Vṛttaratnākara và Kāvyādaṛsa. Dịch về văn xuôi và thơ của tiếng Phạn.

 

- La Mã hóa Pāli và Phạn.

 

- Các ký tự Nāgarī, Burmese và Campuchia.

 

Khoa Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng:

 

I. Hệ Phật giáo Trung Quốc:

 

- Lịch sử văn học Trung Quốc từ thế kỷ thứ nhất.

 

- Trung Hoa cổ đại. Bản dịch Trung Hoa cổ đại hệ Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna Sūtras).

 

- Các bản dịch Hán ngữ cổ đại về các nguồn hệ Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna Sūtras).

 

- Văn phạm cơ bản của ngôn ngữ cổ đại Trung Hoa.

 

- Đọc và hiểu các tóm tắt từ nguồn gốc Phật giáo Trung Hoa.

 

II. Hệ Phật giáo Tây Tạng:

 

-  Lịch sử văn học Phật giáo Tây Tạng.

 

- Các văn bản Phật giáo Tây Tạng cổ đại: Tanjur và Kanjur.

 

- Các tác phẩm Tây Tạng cổ đại thuộc Tantrayana hay Vajrayana.

 

- Văn phạm cơ bản của ngôn ngữ cổ điển Tây Tạng.

 

- Đọc và hiểu các tóm tắt từ các nguồn gốc Phật giáo Tây Tạng cổ đại.

 

Khoa Thực hành và Ứng dụng Phật giáo

 

- Phòng Tôn giáo so sánh: Khoa học, Lịch sử, Kiến trúc Phật giáo, Phương pháp thực tập Thiền Phật giáo, Khoa học Xã hội và Đạo đức Phật giáo, Phòng Quản lý và Truyền thông Phật giáo.

 

- Y học Phật giáo...

 

Hợp tác quốc tế

 

Đại học Trung tâm Nghiên cứu Tây Tạng, Saranath, Varanasi, UP, Ấn Độ

 

Trường Cao đẳng Phật giáo Hungary (Dharma Gate Buddhist College)

 

Học Viện Chohankook Han Eui, Hàn Quốc

 

Đại học Sư phạm Thượng Hải, Trung Quốc

(Shanghai Normal University, 海師範大學)

 

Đại học Trung Hoa, Đài Loan

(Chung Hua University, 中華大學)

 

Đại học Quốc lập chính trị

(National Chengchi University, 國立政治大學)

 

Đại học Sumy State, Ukraine

 

Người chịu trách nhiệm công trình xây dựng Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda là Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero. Giám đốc điều hành đương nhiệm Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda, Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero, Phương trượng Trụ trì Tu viện Manelwatta Viharaya,  Bollegala, Kalaniya,Sri Lanka, Sri Lanka.

 

Hòa thượng Tịnh Không, người ủng hộ phật sự, tài trợ cho Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero trong hoạt động phát triển, hoằng dương chính pháp trên toàn thế giới. Ngài chia sẻ rằng: “Bây giờ tuổi tôi đã già, sức yếu, không thể thêm chương trình mới. Thượng tọa Tiến sĩ Bodhagama Chandima Thero, tuổi trẻ tài cao, có nhiều năng lực để thực hiện các hoạt động phật sự. Vì vậy, Thượng tọa hãy tiếp tục với các hoạt động phật sự, cống hiến vì sự lợi lạc cho nhân loại, tôi sẽ ủng hộ hết mình tất cả các hoạt động phật sự”.

 




Nāgānanda (1)Nāgānanda (2)Nāgānanda (3)Nāgānanda (4)Nāgānanda (5)Nāgānanda (6)Nāgānanda (7)Nāgānanda (8)Nāgānanda (9)



Lip video

 

Đại học Phật giáo Quốc tế Nāgānanda Sri Lanka

(Nāgānanda International Institute for Buddhist Studies, NIIBS)

 

https://www.youtube.com/watch?v=N7UepIqqe3M
https://www.youtube.com/watch?v=ytyTt3oI3iw

https://www.youtube.com/watch?v=bEml9m1hpR4

https://www.youtube.com/watch?v=GRZjF5Jz4Uc



 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Đại học PGQT Nāgānanda)


facebook
youtube
 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5452)
Từ bi là một trong những đặc điểm tiêu biểu của đạo Phật. Trong sự gắn bó với đời sống của dân tộc Việt Nam cũng như với thi ca, một phần tính chất từ bi của đạo Phật đã được hình tượng hóa với hình ảnh Đư1c Phật Quan Âm, cụ thể hơn là Phật Bà Quan Âm.
10/04/2013(Xem: 7013)
Giá trị của một học thuyết là ở chổ kiến thiết được một nền văn minh bằng học thuyết đó. Phật Giáo Việt Nam đã có một thời tạo nên nền văn minh mới cho dân tộc sau một thiên kỷ bị người Tàu cai trị.
10/04/2013(Xem: 6245)
Giáo dục học là khoa học về việc giáo dục con người, khoc học về sự huấn luyện đạo đức, huấn luyện trí tuệ và hình thành nhân cách con người. Giáo dục là khoa học của các khoa học, đào tạo nên tất cả ngành nghề trong xã hội. Từ gốc độ xã hội học, giáo dục là quá trình hành thành con người dưới tác động của môi trường xã hội và thực tại xung quanh con người.
10/04/2013(Xem: 4619)
Nói chung là dòng nghi lễ của Phật giáo Việt Nam phát triển từ Bắc đến Trung và vào Nam. Nhưng ở miền Trung có được nét đặc biệt là trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, miền Trung được các Tổ sư ở Trung Hoa sang và họ đã cải cách những nghi lễ ở miền Bắc vốn đang được sử dụng ở miền Trung khiến cho nghi lễ miền Trung mang nét cung đình: còn nghi lễ từ Phú Yên trở vào thì đi vào tính dân gian hơn.
10/04/2013(Xem: 4671)
Cũng như triều đại nhà Đinh (968-980) trước đó, triều đại Lê Đại-Hành (980-1005) [1] là một triều đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước của nước ta, nhưng sự nghiệp ấy quá ngắn ngủi vì sự phá nát của vua Lê Long-Đĩnh (1005-1009) [2], cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay. Phú cường và an cư lạc nghiệp là những nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc, và đó đã là động cơ thúc đẩy Lí Công-Uẩn [3] lên nắm chính quyền (1010-1028) để phục hưng quốc gia, bảo vệ tinh thần đạo đức của dân tộc.
10/04/2013(Xem: 3868)
Đạo Phật từ khi du nhập phát triển ở nước ta luôn luôn có khuynh hướng Đại thừa rõ rệt. Một trong những khuôn mặt đầu tiên xiển dương PG ở nước ta là Khương Tăng Hội (thế kỷ thứ 3) với bản dịch Lục độ tập kinh (kinh nói về 6 hạnh Ba la mật của Bồ Tát) đã nói lên khuynh hướng đó. Trải qua gần 1000 năm phát triển, tinh thần Đại thừa càng nổi bật và thành tựu ở những nhà vua Thiền sư đời Trần: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông.
10/04/2013(Xem: 4413)
Nói về việc tiêu chuẩn hóa Tăng Già Việt Nam là một vấn đề lớn và khó thực hiện. Luật Tạng đã qui định rất rõ về tuổi tác, căn thân tâm thần của một Tỳ Kheo. Nhưng nhìn chung chúng ta chưa thực hiện một cách đầy đủ. Trong thời Đức Phật Giáo Hội chưa thành lập trường học Phật giáo, nên không có một qui điều buộc một Tỳ kheo phải học một chương trình theo trường lớp cụ thể. Hơn nữa Giáo lý Giải thoát của Đức Phật không câu chấp vào một hình thức cố định nào và một Tỳ kheo thời đó đúng là một lữ khách không nhà.
10/04/2013(Xem: 5612)
Nói đến hiện tình tức là chỉ cho tình trạng sinh họat đã đang và sẽ diễn ra trong một giai đoạn nào đó, của một cá nhân hay một tập thể, mà qua đó chúng được thể hiện như là một đối tượng để chúng ta khảo sát và đánh giá về chúng. Chúng luôn luôn thể hiện sự lệ thuộc vào chính tự thể của một cá nhân, hay một tập thể tha nhân mà sự hiện hữu đó như là những sự kiện chính xác, để chúng ta đánh giá đúng sai về chúng một cách công bằng và không sợ rơi vào thiên kiến chủ quan.
10/04/2013(Xem: 4596)
Khi cuộc vận động đòi kinh bình đẳng tôn giáo được chính thức phát động tại Huế vào Phật Đản 1963, thì lúc đó tôi mớichỉ là chú điệu học lớp đệ lục. Đã hơn ba thập niên qua rồi, vậy mà tôi vẫn còn nhớ như in cái không khí lo âu của những người cùng lứa tuổi như tôi vào một buổi chiều tại chùa Linh Sơn ở Đà Lạt, sau khi nghe đài BBC loan tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu tại ngã tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn. Thực ra, lo âu thì ít nhưng sung sướng và hãnh diện thì nhiều.
10/04/2013(Xem: 7717)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]