Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu ( Sách PDF)

07/06/202107:10(Xem: 12451)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu ( Sách PDF)


Phật_Giáo_Việt_Nam_tại_Âu_Châu-bia
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI CHÂU ÂU
Tác giả: HT Thích Như Đi
ển
Diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh

Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước 

Phần 1:  Mục Lục và Lời Nói Đầu


Phần 2: Vạn Sự Khởi Đầu Nan




Phần 3: An Cư Lạc Nghiệp




Phần 4: Kiến Lập Đạo Tràng Tu Học




Phần 5: An Cư Kiết Hạ




Phần 6: Những Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu




Phần 7: Những Đại Giới Đàn




Phần 8: Những Đàn Tràng Chẩn Tế Cô Hồn




Phần 9: Những Buổi Học Phật Cho Người Ngoại Quốc




Phần 10: Hành Hương Chiêm Bái




Phần 11: Tang Lễ, Hôn Lễ và Những Ngày Lễ Lớn Trong Năm




Phần 12: Bồ Tát Giới Xuất Gia và Bồ Tát Giới Tại Gia




Phần 13: Ăn Chay, Phóng Sanh, Bố Thí, Cúng Dường




Phần 14: Các Hoạt Động Từ Thiện Xã Hội




Phần 15: Ngoại Giao, Giao Tế Với Các Tổ Chức Phật Giáo Khác




Phần 16: Phiên Dịch Kinh Điển




Phần 17: Những Ngôi Chùa Tiêu Biểu Tại Châu Âu




Phần 18: Thiền Môn Quy Củ





Phần 19: Lời Cuối Sách




Phần 20: Lời Cảm Ơn và Cùng Một Tác Giả









MỤC LỤC
● Lời nói đầu ................................................................................7
● Vạn sự khởi đầu nan....................................................................13
● An cư lạc nghiệp...........................................................................45
● Kiến lập đạo tràng tu học.............................................................57
● An cư kiết hạ................................................................................71
● Những khóa tu học Phật Pháp Âu Châu......................................81
● Những Đại Giới Đàn...................................................................101
● Những Đàn Tràng Chẩn Tế Cô Hồn...........................................113
● Những buổi học Phật cho người ngoại quốc.............................125
● Hành Hương, Chiêm Bái............................................................141
● Tang Lễ, Hôn Lễ và những ngày Lễ lớn trong năm....................161
● Bồ Tát Giới Xuất Gia và Bồ Tát Giới Tại Gia.............................187
● Ăn Chay, Phóng Sanh, Bố Thí, Cúng Dường............................197
● Các hoạt động từ thiện xã hội....................................................207
● Ngoại giao, giao tế với các Tổ chức Phật giáo khác..................215
● Phiên dịch kinh điển...................................................................219
● Những ngôi Chùa Tiêu Biểu tại Âu Châu...................................233
● Thiền Môn Quy Củ.....................................................................257
● Lời Cuối Sách.............................................................................263
● Lời Cám Ơn...............................................................................267
● Cùng Một Tác Giả......................................................................271


LỜI NÓI ĐẦU

   Hôm nay là ngày 9 tháng 7 năm 2018, trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm Mậu Tuất, Phật lịch 2562 này, tôi bắt đầu đặt bút viết tác phẩm thứ 66 của mình sau hơn 45 năm (1974-2018) cầm bút và sau hơn 42 năm ở tại Âu Châu (1977-2018).

   Những sách của tôi viết bằng tiếng Việt hay dịch từ các ngôn ngữ khác ra Việt ngữ như: Anh, Đức, Hán, Nhật đều đã được in ấn và xuất bản với số lượng ít nhất là 1.000 quyển và có khi lên đến 2.000 quyển hay 5.000 quyển. Vấn đề là độc giả có nắm bắt được bao nhiêu phần trăm ý chính của kinh văn hay của sách dịch lại là một việc khác. Người viết văn, dịch sách cũng giống như con tằm ăn dâu thì phải nhả tơ, đó là bổn phận, còn dệt nên lụa là gấm vóc là chuyện của con người, chứ không phải của con tằm.

   Dĩ nhiên là người viết văn, viết sách cũng phải có bổn phận và trách nhiệm của mình trên vấn đề văn chương, chữ nghĩa cũng như tư tưởng hướng đến cho người đọc như thế nào, chứ không hẳn chỉ một chiều mà người viết muốn viết gì thì viết. Ngược lại người viết sách cũng phải chọn cho mình một thái độ đứng đắn, đạo đức để hướng người đọc đi vào con đường từ bi, lợi tha, để mở ra cánh cửa nhân ái cũng như trí tuệ, thì đó mới là điểm căn bản mà  người viết phải cần hướng đến.

   Đã nhiều lần, có nhiều người gọi tôi là văn sĩ hay nhà văn, nhà thơ, nhưng tất cả tôi đều chối từ. Tôi chỉ là một tăng sĩ mà thôi. Bởi lẽ tôi ham đọc sách,  viết văn, nên kể từ dạo ấy (1974) đã trở thành một thói quen, thế thôi! Nhưng dầu ở dưới bất cứ hình thức nào đi nữa thì tôi cũng xin niệm ân tất cả độc  giả khắp năm châu bốn bể đã ủng hộ tôi ở nhiều hình thức như: khuyến khích viết tiếp những bộ sách về sử liệu hay tiểu thuyết, dịch những trang kinh,
trang thơ từ chữ Hán, Nhật, Anh, Đức sang Việt ngữ để lại cho đời sau, cho nhiều người có thể tham khảo đến. Bởi lẽ “thời gian và thủy triều trôi qua rồi, sẽ không bao giờ dừng lại”, do vậy mà tôi đã quên đi với bao nhiêu nhọc nhằn của tuổi tác (năm 2018 này, tôi đã 70 tuổi ta rồi), đã làm nhiệm vụ như con tằm vậy, nhằm giúp cho Đời, cho Đạo thêm một ít chất liệu dưỡng sinh của tâm linh trong cuộc sống. Thế là tôi mãn nguyện lắm rồi.

   Lại còn nhiều người hữu danh và ẩn danh khác, sau khi nghe tôi vừa viết hay dịch xong một tác phẩm, lại phát tâm ấn tống ngay tác phẩm ấy, để tôi khỏi phải nhọc nhằn chạy tới chạy lui kêu gọi ấn tống nữa. Quả thật đây là những tấm chân tình không có gì so sánh được, đối với một người cầm bút như tôi.

   Trong những năm vừa qua, tôi đã viết các tác phẩm về nước Nhật, nước Úc, Hoa Kỳ và nay tôi viết về Âu Châu. Vì nơi đó tôi đã được dưỡng nuôi hình hài và tâm thức này suốt trong thời gian hơn 42 năm qua (1977-2018) thì không lý do gì mà tôi không ghi lại bằng chữ nghĩa qua những tấm đạo tình của chư Tăng Ni cũng như Phật tử người Việt cũng như người Đức đã bảo bọc tôi suốt chừng ấy thời gian. Quả là điều không thể khước từ được. Mặc dầu không ai giao cho tôi một trách nhiệm như thế, nhưng tôi tự giao cho mình và từ đó phát nguyện dấn thân.

   Cách đây mấy năm tôi cũng đã viết quyển “Cảm tạ xứ Đức” bằng tiếng Việt và sau đó được dịch ra Đức ngữ, nhưng nội dung của sách này cũng chỉ hướng về nước Đức, chưa nói rộng ra khắp Âu Châu được và nay chính là lúc đúng thời để viết lại những gì đã xảy ra tại Âu Châu này với Phật giáo Việt Nam qua gần nửa thế kỷ.

   Viết ký sự không nhất thiết như viết lịch sử hay tiểu thuyết, mà tôi chỉ ghi lại những sự kiện theo thời gian cũng như những việc quan trọng đối với người xuất gia và tại gia trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam phải hội nhập vào xứ người, đồng thời chúng ta cũng phải có một nhiệm vụ khác nữa, đó là bảo tồn cũng như phát huy nền văn hóa cổ truyền của Dân tộc và của Đạo Pháp tại đây, nên nhiệm vụ ấy chẳng nhẹ nhàng chút nào đối với những người tự nhận trách nhiệm phải hoàn thiện một cách khéo léo và thành công.

    Tôi cũng thường ứng dụng câu của nói của cố Hòa Thượng Thích Mật Hiển thường dạy chúng Tăng rằng:
“Phàm đã làm thầy tu thì đừng có sợ, mà đã sợ thì không nên làm thầy tu.” Đôi khi tôi lấy ý của Ngài và vạch ra cho mình cũng như cho tử đệ một hướng đi là: “Phàm làm việc gì có ích cho người khác thì đừng có sợ, mà nếu sợ thì đừng có làm.” Hoặc giả đôi khi tôi cũng bày ra một phương tiện khác như: “Đã tin thì nên giao công việc cho người khác và khi đã không tin thì không nên giao.” Việc này cũng rất tế nhị. Vì đôi khi đã giao việc cho người khác rồi mà mình cứ luôn theo dõi, sợ người ta làm hỏng, hoặc không tin tưởng người mình đã giao công việc. Nếu đã như vậy thì tốt nhất ngay từ khi ban đầu đừng giao công việc cho người kia vẫn hơn. Nếu không làm được như vậy thì người giao công việc cũng không vừa lòng, mà người nhận công việc cũng lại
thêm khó chịu nữa.

   Quý vị khi đọc sách này xin được ý quên lời, vì đôi khi sự sắp đặt câu cú hay mục lục không đồng nhất, hay bị lặp đi lặp lại nhiều lần. Đó chẳng qua là sự vụng ý của tác giả. Kính mong quý vị hãy hoan hỷ bỏ qua cho.

   Năm nay (2018), chúng tôi và Đại Chúng chùa Viên Giác lạy kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 2 đã hết phẩm Kiều Trần Như rồi. Bây giờ đang lạy đến phẩm Phật Di Giáo. Thông thường trong những mùa An Cư Kiết Hạ trước, mỗi đêm chúng tôi và Đại Chúng lạy độ trên dưới 300 chữ, mỗi chữ mỗi lạy, nhưng kể từ ngày 30.06.2018 trở đi mỗi tối trong mùa An Cư chúng tôi chỉ lạy trên dưới 200 lạy và mỗi sáng vào giữa thời công phu khuya, thay vì lạy bát tướng thành đạo và lạy danh hiệu của Tứ Thánh, chúng tôi lạy hơn 100 lạy nữa của kinh Đại Bát Niết Bàn. Đây là điểm gần cuối mà cũng là điểm bắt đầu cho những tháng ngày sau An Cư Kiết Hạ, chúng tôi và Đại Chúng chùa Viên Giác cũng sẽ hành trì như vậy. Bởi lẽ đến sinh nhật của tôi vào ngày 28 tháng 6 năm 2019, kỷ niệm 70 năm đã hiện hữu trên cuộc đời này, chúng tôi mong lạy cho xong bộ kinh và đây cũng là lời nguyện của chúng tôi trong mấy chục năm nay phải hoàn thành. Nghĩa là sau mùa An Cư chỉ lạy vào buổi sáng mà không lạy vào buổi tối nữa. 

   Những năm tháng sau này, chúng tôi sẽ trì kinh Đại Bảo Tích trong những mùa An Cư Kiết Hạ, thay vì lạy kinh từng chữ từng lạy như xưa nay, vì lẽ tuổi già ai cũng vậy, đứng lên ngồi xuống không phải là chuyện đơn thuần. Do vậy mà năm 1984 khi tôi 35 tuổi đã phát nguyện lạy kinh và nay 70 tuổi, sau 35 năm hành trì cũng đã đến lúc phải dừng lại việc lạy Phật như vậy để chỉ chuyên vào câu Niệm Phật và trì kinh niệm chú, vốn là những điều cần thiết cho những người đã có niên cao, lạp trưởng rồi.

   Xin nguyện cầu Tam Bảo luôn được trường tồn nơi thế gian để cho mọi người được lợi lạc và cầu mong cho tai trời ách nước không đến vội với cuộc đời này, để chúng ta còn có đủ thời gian thực hành lời Phật dạy. Cầu cho đất Mẹ Việt Nam luôn gặp nhiều thuận duyên để thể hiện tinh thần vô úy, lợi tha của người con Phật đang đối đầu với những nghịch cảnh chung quanh mình và cũng xin niệm ân tất cả những ai đã hỗ trợ cho tác phẩm này được hình thành, nên quý vị hôm nay mới có nhân duyên cầm trên tay quyển sách này để đọc.

Viết tại Vô Học Cốc - Hannover
ngày 09.07.2018



pdf-icon

Phật Giáo Việt Nam tại Âu Châu 





***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3852)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 30780)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 9594)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3920)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4641)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 8305)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 5492)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 15727)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 6261)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2980)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]