Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nhận xét về hiện tình Phật Giáo Việt Nam

10/04/201314:02(Xem: 5032)
Vài nhận xét về hiện tình Phật Giáo Việt Nam


Một vài nhận xét về
HIỆN TÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM
(Từ năm 1975- 1999)


N.T.H

Nói đến hiện tình tức là chỉ cho tình trạng sinh họat đã đang và sẽ diễn ra trong một giai đoạn nào đó, của một cá nhân hay một tập thể, mà qua đó chúng được thể hiện như là một đối tượng để chúng ta khảo sát và đánh giá về chúng. Chúng luôn luôn thể hiện sự lệ thuộc vào chính tự thể của một cá nhân, hay một tập thể tha nhân mà sự hiện hữu đó như là những sự kiện chính xác, để chúng ta đánh giá đúng sai về chúng một cách công bằng và không sợ rơi vào thiên kiến chủ quan. 

Hiện tình sinh hoạt của Phật giáo Việt nam, chúng cũng được nhìn nhận và đánh giá như là một đối tượng nghiên cứu nghiêm túc cho một chung cuộc sau này của lịch sử về giai đoạn đó. Phật giáo Việt nam trong giai đoạn hiện tại, nếu nhìn một cách trung thực và khách quan, thì đây quả thực là một giai đoạn đáng để chúng ta ưu tư và lo nghĩ về tiền đồ của Phật giáo Việt nam, vì tự thân nó Phật giáo đã đánh mất đi cái giá trị nội tại, đáng lý ra nó phải được nuôi dưỡng phát huy một cách tự chủ trong quá trình gìn giữ và kế thừa. Ở đây, chúng ta không quy trách nhiệm cho bất cứ môﴠcá nhân nào cả, mà là trách nhiệm chung của Phật giáo Việt nam, chỉ vì mỗi người trong chúng ta quá vụng về trong cung cách ứng đối với hòan cảnh chung quanh vào lúc bấy giờ, nên tình trạng phân hóa nảy sinh, và chúng kéo theo sau những sự thực đau lòng qua những hiện tượng hủ hóa của chính các vị lãnh đạo trong Giáo-hội hiện tại, được thể hiện qua sự đánh mất chính mình (tự ti) để làm công cụ tay sai cho một thế lực vô minh bên ngoài, trong khi họ tự tôn một cách quá đáng đối với các đồng đạo của mình, qua sự thể hiện cái ngã trịch thượng được gói gém và nuôi dưỡng bỡi những đặc lợi đặc quyền cỏn con do thế lực vô minh mang lại. Đây là hiện tượng phổ biến từ trên chóp bu Trung ương cho đến các Quận, Huyện địa phương trong khắp cả nước, cũng từ đó Phật giáo Việt nam, sức mạnh của tập thể yếu dần đi, và phân ra thành hai giai cấp thống trị và bị trị rõ ràng. 

Giai cấp thống trị được hưởng những đặc ân đặc quyền do nhà nước ban phát, và do đó họ chỉ biết chú trọng đến bề mặt hình thức bên ngoài được chỉ đạo sát sao bỡi một ban tôn giáo chính phủ từ trung ương cho đến địa phương theo hướng đi của nhà nước qui định. Do đó tuy rằng Giáo hội về mặt hình thức trông có vẻ có bề thế, và có sức sinh hoạt năng động nhờ vào những phương tiện nhà nước ban phát, nhất là phương diện truyền thông đại chúng. Nhưng trong nội dung thực chất thì chúng hủ hóa mục nát, chúngống được là nhờ nhà nước hà hơi tiếp sức, nếu không thì đã ngã gục từ lâu rồi. Rốt cuộc rồi quanh đi quẩn lại cũng những gương mặt ấy, kể từ ngày thành lập cho đến bây giờ, và có lẽ là mãi về sau này cũng có, vì nguyên tắc hành chính chỉ huy mà, có thua gì việc cha truyền con nối trong chế độc phong kiến đâu!? Một người có thể kiêm cả ba, bốn, năm, hay sáu chức vụ gì đó, từ trên Trung ương đến địa phương. Hiện tượng này là một hiện tượng của thiếu người hợp tác, và cũng là do tham quyền cố vị, hay bè phái địa phương đẻ ra. Thật ra, trong những khuôn mặt này, không hẳn họ có cùng chung một chí hướng. Có người ngồi lại vì một lý do nào đó, hoặc vì cái lợi ích chung, hoặc vì lợi ích riêng tây, hoặc vì tự ti, hoặc vì cơ hội, hoặc vì vong thân đánh mất đi chính mình; nhưng nói chung thì người vì lợi ích chung thì quá ít oi, hơn nữa những người có đôi chút liêm sỉ tàm quý thì họ không bao giờ đứng ra họp tác cả, ngoài ra thì hoàn toàn là những người cơ hội; nếu nói cho chính xác và đúng với những hiện tượng đã và đang xảy ra trong Gi񦣲25;o hội thì họ là những người đã đánh mất chính mình. Sự hiện hữu của họ vì thế, đã trở thành không có ích gì cho Tăng tín đồn Phật tử cả, vì tự họ không có thẩm quyền ngay trong việc sinh hoạt Giáo hội, chứ đừng nói chi đến những việc khác như can thiệp, hay bênh vực Tăng tín đồ Phật tử bị nhà nước chèn ép, áp bức hay giam giữ bất hợp pháp khi cầu cứu đến họ. Ở đây, không những họ không can thiệp mà còn đồng lõa với các thế lực đó nữa là khác, họ dựa vào thế lực nhà nước hù dọa, bắt nạt, làm tiền ăn hối lộ đối với giai cấp bị trị, giống như là một cán bộ nhà nước không khác gì. Đó chính là cái thế làm cho giai cấp dưới của Phật giáo Việt nam càng ngày càng lánh xa, để rồi phân ra làm hai cấp rõ ràng, và cũng từ đó họ không liên hệ thân cận và nắm được giai cấp dưới. Họ tự trở thành những kẻ bị cô lập, nếu họ có liên hệ được chăng nữa, thì chính sự liên hệ đó là thứ liên hệ hành chánh khi giai cấp dưới cần thế thôi. Ngoài ra, họ chỉ biết tranh dành địa vị chỗ ngồi để rồi chèn ép nhau, loại nhau bằng những thủ đoạn nếu được, bằng cách dựa dẫm vào thế lực nhà nước để chơi nhau ngay trong những người chính họ, vì vậy cho nên ngay trong chính những người ra làm việc Giáo hội không ai tin ai, luôn luôn dè chừng nhau, và nạn bè phái địa phương, môn phái cũng từ đây nảy sanh. Một tập thể mà từ trên xuống dưới nghi ngờ nhau, dè chưng nhau, chỉ vì họ sợ rằng ai cũng làm nhiệm vụ như chính họ đang nhận nhiệm vụ theo dõi người khác, vậy thì làm sao mà cảm thông nhau, làm sao hòa hợp được, vì thế cho nên sức mạnh tập thể không có. Giáo hội thì có đó nhưng không có hồn, đến độ Tăng ni Phật tử thuộc thành phần bị trị, phần nhiều không biết Thành hội là gì? Đặt ở đâu? Văn phòng II là gì và hiện đang ở chỗ nào? Họ chỉ biết có chùa của họ, chỉ biết có bổn đạo của họ, và ngược lại Phật tử chỉ biết cái chùa của họ, ông Thầy của họ mà thôi. Một Giáo hội như vậy làm sao đứng vững nổi, nếu không nhờ vào bàn tay phù phép của nhà nước thò vào nâng đỡ? 

Từ những hiện tượng trên cho chúng ta một cái nhìn đúng hơn về Giáo hội hiện tại. Ở đây chúng ta không đặt vấn đề là Giáo hội hợp pháp hay không hợp pháp, tự nó sẽ trả lời cho chính nó qua việc sinh hoạt hằng ngày của Giáo hội này, có chủ quyền hay không có chủ quyền trong việc thực thi kế sách sinh hoạt cho Giáo hôi, hay đó cũng chỉ là một con cờ tay sai cho chủ nghĩa đế quốc mới, thực hiện tham vọng thống trị phi dân tộc, phi nhân bản tại đất nước này qua chủ nghĩa Max-Lê của ý thức hệ ngoại lai Tây phương đã đang và sẽ áp đặt trên đất nước này? mà chúng ta chỉ xét trên khía cạnh sức mạnh của đoàn kết và hiệu quả phát triển là không có, nếu có chăng nữa thì những hiện hữu có được đó được hình thành bỡi thế lực nhà nước, cọng vào sự lợi dụng của giai cấp bị trị mà theo họ với hoàn cảnh xã hội như vậy thế chẳng đặng đừng phải hợp tác vì tương lai của Phật Giáo Việt nam họ phải chấp nhận, nên chúng ta ở bên ngoài thấy có những hiện tượng phát triển thật sự trên mọi lãnh vực như: về giáo dục mở ra các trường Cơ bản ở mỗi tỉnh, cấp địa phương; còn cấp Trung ương mở ra hai trường Cao đẳng, ba Học viện Phật giáo tại ba miền Bắc, Trung, Nam, và một Viện nghiên cứu Phật học. Về hoằng Pháp thì thỉnh thoảng mở ra các lớp bồi dưỡng Giảng sư tại Trung Ương cũng như địa phương. Về Tăng sự thì tổ chức an cư Kiết hạ hằng năm, tổ chức Giới đàn những nơi nào có Tăng ni nhiều cứ ba năm một lần trong khắp cả nước v.v… nhưng thật chất đó chỉ là những hình thức bên ngoài được nhà nước dàn dựng lên và bảo trợ chỉ đạo một cách sát sao ở bên trong. Phật giáo của Giáo hội này làm bất cứ việc gì mà không có sự đồng tình đồng ý của nhà nước, và những Đảng viên chỉ đạo trực tiếp nằm trong guồng máy Giáo hội gật đầu thì đừng hòng thực hiện được. Như vậy những hiện tượng Giáo hội phát triển về nhiều mặt ở trên như chúng tôi đã đề cập cũng không ngoài sự bảo trợ và chỉ đạo trực tiếp này, cộng với cái thế chẳng đặng đừng của giai cấp Tăng lữ và quần chúng Phật tử bị trị này. Ở đây, nếu không có sự hiện hữu cộng tác có lý do riêng của giai cấp bị trị thì thử hỏi giáo hội và nhà nước có làm gì được không? Vì vậy, Giáo hội không có bất cứ một giá trị nào đối với quần chúng Tăng tín đồ Phật tử ngoài việc bị giai cấp dưới lợi dụng mà họ không biết, họ cứ tưởng đó là sự thành công của họ!

Qua những hiện tượng trên cho chúng ta thấy, hiện tại nếu bảo là có sự phát triển, thì sự phát triển đó là sự pháp triển của Phật Giáo Việt nam chứ không phải sự phát triển của Giáo hội Phật giáo việt nam, hay nói một cách chính xác hơn thì đó chính là sự phát triển của giai cấp bị trị Phật giáo Việt nam vào lúc bấy giờ. Đây là một giai cấp đã và đang lớn mạnh trong một hoàn cảnh khó khăn bị chèn ép bỡi trong lòng nội tại của chính nó, và hoàn cảnh bên ngoài buộc nó phải tự hủy. Nhưng nó vẫn sống và vẫn mạnh hơn lúc nào hết nhờ vào những lý do như chúng tôi vừa nêu ra. Cái nguyên nhân đưa đến sự bền vững và lớn mạnh của giai cấp Tăng tín đồ bị trị, chúng được hình thành và hiện hữu nhờ vào: 

Thứ nhất, vì Giáo hội không có hệ thống hành chánh ở cấp cơ sở (xã, phường, thôn, ấp, làng xóm) nên Giáo hội không đi sát, sâu, và nắm vững hạ tầng cơ sở nên Giáo hội trở thành không có quần chúng (đây là điều nhà nước muốn và Giáo hội cũng đã đáp ứng yêu cầu của họ). Thử hỏi một tổ chức mà không có hạ tầng cơ sở thì họ làm việc với ai, và họ dựa vào đâu để hiện hữu? Vì nhà nước biết thế cho nên buộc họ phải làm chỗ dựa cho Giáo hội, và giáo hội vì thế trở thành công cụ cho họ để mà hiện hữu. Trong khi đó nhà nước luôn coi trọng hạ tầng cơ sở và luôn luôn nắm vững hạ tầng cơ sở để làm nền tảng cho chế độ của họ. Chính vì chỗ hở này mà Giáo hội không nắm vững được quần chúng Phật tử và Tăng ni, và cũng vì chỗ hở này mà giai cấp bị trị lợi dụng nó để tự hóa thân biến mình trở nên đoàn kết và vững mạnh hơn. Ở đây, họ không cần gì hết, chỉ cần quan hệ tốt với nhà nước địa phương là họ sẽ được tất cả(vì nhờ có cán bộ hủ hóa từ trên cho đến dưới cho nên đây cũng là một cái duyên thuận để giai cấp bị trị phát triển nội bộ), như vấn đề xuất gia, học tập, thọ giới, tấn phong Hòa thượng, Thượng tọa .v.v… Nhà nước đâu có muốn cho Phật giáo phát triển, và tất cả mọi sinh hoạt tín ngưỡng khác cũng vậy, trước hết và trên hết của mọi vấn đề ở đây là phải có sự chấp thuận của nhà nước trong việc nếu muốn đi tu, nếu muốn học tập, nếu muốn tấn phong Hòa thượng, Thượng tọa hay muốn bất cứ việc gì đều phải được sự chấp thuận của nhà nước, còn Giáo hội là cơ quan, để nhà nước nhờ vào đó mà họ thoát khỏi tai tiếng là cấm đoán tự do tín ngưỡng tôn giáo, nên buộc Giáo hội phải ra nội qui ai muốn đi tu thì phải được sự đồng ý của cha mẹ, và được sự chấp thuận của chính quyền địa phương, nhưng trên thực tế thì có ai muốn đi tu làm đơn xin nhà nước bao giờ, và nếu có xin đi nữa thì cũng bị nhà nước bác bỏ, vì họ không muốn chịu trách nhiệm về chữ lý trên mặt giấy tờ nếu có việc gì xảy ra; nhưng đối với nhà nước này thì cái gì cũng có thể xảy ra; biết vậy cho nên họ không bao giờ làm việc này. Nhà nước thì lúc nào cũng tuyên truyền là mọi người ở trong nước Xã hôi chủ nghĩa đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; nhưng có một điều rất nghịch lý là khi đã cạo đầu xuống tóc, mặc pháp phục rồi thì người này không có chỗ ở, vì nhà nước đâu có cho nhập hộ khẩu thường trú ở trong chùa, nếu chùa nào có liên hệ tốt với nhà nước địa phương thì mới được tạm trú. Như vậy cũng bằng là cấm không cho tu rồi!? Những điều này thì Giáo hội không bao giờ can thiệp, và đặt vấn đề với nhà nước đâu; từ đây nảy sanh ra không biết bao nhiêu là tệ nạn, Tăng ni thuê nhà ở trọ, hay ở nhà bổn đạo, vì những nơi này Tăng ni được quyền tạm trú còn chùa thì không được!? Đó là một trong vô số cái bất hợp lý như vậy, đối với tôn giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo nói riêng, mà các cấp lãnh đạo không bao giờ dám hở môi, vì vậy cho nên giáo hội phải lãnh đủ tai tiếng búa rìu thay cho nhà nước. Khi mà giai cấp thống trị không cưu mang nổi những việc này cho Tăng tín đồ Phật tử, thì giai cấp bị trị tự lo lịu về tương lai cho Phật giáo, bằng cách liên hệ tốt với chính quyền địa phương, để họ cho phép tạm trú tại địa phương họ, và dần dần đâu cũng vào đó và được hợp thức hóa một cách đàng hoàn, bằng sự khéo léo giữa người với người thì mọi chuyện đều im xuôi. Chính nhờ vào sự hiện hữu bằng cách này mà giai cấp Giáo hội thống trị mới có người để họ mở trường dạy học, mở Giới đàn thọ giới chứ nếu không có như vậy thì tu sĩ tìm đâu ra để họ mở trường dạy học, mở Giới đàn để thọ giới? Thứ hai, vì Giáo hội không có cơ sở hạ tầng, cho nên quần chúng Phật tử họ không nắm được. Từ sự ngăn cách giữa quần chúng Phật tử và các cấp lãnh đạo từ cấp quận huyện trở lên của Giáo hội được coi như là một sự ngăn cách lớn, nên Giáo hội hiện đang chơi vơi giữa từng không, có thể rớt lúc nào cũng được nếu nhà nước muốn. Vì Giáo hội không đặt trên bất cứ nền tảng nào vững chắc nào hết, nên sự hiện hữu của họ như là một cái bóng đối với giới Phật tử tại gia, hay đó chỉ là một tổ chức chánh trị do nhà nước lập ra để tuyên truyền cho chế độ mà thôi. Ngược lại giai cấp bị trị, họ chỉ gần gũi và thân thích những vị cũng đồng với cảnh ngộ của họ, cùng với tầng lớp của họ, sát cánh với họ trong sinh hoạt tâm linh như tu học, lễ bái, ma chay, giỗ chạp, cầu an, cầu siêu nói chung là mọi hoạt động về tinh thần, họ gắn bó với nhau qua tình nghĩa Thầy trò, tình nghĩa đồng đạo, tình nghĩa chòm xóm. Họ đoàn kết nhau để vương lên trong sự áp bức chèn ép của giai cấp thống trị; họ biết cách lợi dụng để tự sinh tồn mà không đánh mất chính họ. Đó là điều mà mọi người trong giai cấp bị trị lấy là hảnh diện, và nhìn thẳng vào đời đi lên với hai bàn chân của chính mình, cho dù họ gặp rất nhiều khó khăn trong lúc sinh hoạt, như hội hợp phải xin phép nếu không phải là những ngày lễ lớn theo truyền thống, đã được nhà nước cho phép thì dứt khoát không được, thì họ sinh hoạt theo lối khó khăn. Sự hiện hữu và phát triển của giai cấp bị trị này, nó đã nói lên được cái huyết mạch truyền thống lâu đời của dân tộc, nó đã ăn sâu, đã đúc kết nên một giai cấp chân lấm tay bùn, lao động vất vả, luôn luôn bênh vực lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau trong những khi hoạn nạn ập đến; luôn tự chủ không đánh mất chính mình. Nó là một Giáo hội chính thống của Phật giáo Việt nam, là Giáo hội của những kẻ thấp cổ bé họng, Giáo hội của vô danh nhưng hữu thực, đó chính là G.H.P.G.V.N.T.N. Hay nếu muốm đặt cho nó một cái tên để gọi thì đó là một trong những danh xưng hợp tình hợp lý nhất trong hiện tại. 

Tóm lại, như đã trình bày ở trên chúng ta đã nhìn thấy hiện tình Phật giáo Việt nam là như vậy, chúng bị phân hóa thành hai giai cấp rõ ràng là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Sự hiện hữu của chúng được đánh giá như là một sự ô nhục một thời trong suốt dòng lịch sử Phật giáo Việt nam, chúng được hình thành và hiện hữu một cách nhức nhối bỡi các thế lực vô minh nội tại cũng như ngoại tại, đáng lý ra nó phải là một khối mạnh đoàn kết. Chúng ta không trách ai hết mà chúng ta hãy tự trách chính mình, không đủ trí tuệ để lèo lái con thuyền Phật giáo Việt nam vượt qua cơn bão táp, mà tự nhận chìm chính mình để tránh bão táp!? Rốt cuộc rồi chúng ta được gì? Chia rẽ, phân tán, yếu dần yếu dần và chìm nghỉm trong tiếng cười của bão táp phong ba. Hãy nắm tay nhau lại, sát cánh bên nhau, đoàn kết nhau lại, hãy tha thứ cho nhau những lỗi lầm nếu có trong quá khứ, hay trong hiên tại, mà vực dậy con thuyền Phật giáo Việt nam. Hiện tại vẫn chưa phải là đã trễ, chỉ sợ chúng ta không đủ dũng khí của một bậc trượng phu đứng lên cùng nhau vực dậy con thuyền, và đặt chúng vào hướng đi thích hợp đối với sự giải thoát, và tự chúng ta hợp nhau lèo lái tiến lên, mà không cần bất cứ một thế lực nào khác ngoài chúng ta ra, thì đó mới đích thực là hướng đi đúng của Phật giáo Việt nam. 


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2021(Xem: 10390)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 7462)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
15/09/2020(Xem: 9813)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 11082)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
09/04/2020(Xem: 5513)
Thành phố Sa Đéc hiện có trên dưới 48 cơ sở thờ tự (đình, chùa, miếu, nhà thờ họ,…) và trong đó không ít những ngôi chùa, đình có niên đại trên 100 tuổi (chùa Phước Hưng xây dựng vào 1838 tính đến nay 177 năm, chùa Quảng Phước xây dựng vào 1858, tuổi thọ cũng gần 160 năm, đình Tân Quy Tây thờ vị thần hoàng khai khẩn đất đai Võ Ngọc Minh được xây dựng vào năm 1812, hơn 200 tuổi…). Bài viết của chúng tôi tập trung giới thiệu 3 trong số quần thể di tích chùa, đình cổ ở đây với số lượng văn bản Hán Nôm vượt trội, cũng như lịch sử lâu đời: Chùa cổ Phước Hưng, chùa Bà Thiên Hậu của công đồng người Hoa và đình Vĩnh Phước.
05/03/2020(Xem: 6652)
Trong những quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha, Phật Giáo nằm ngay giữa bối cảnh lịch sử Thiên Chúa Giáo. Mối quan hệ giữa hai nền văn hóa tôn giáo – Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo – phủ lên một hình ảnh bao quát: từ chủ nghĩa bài xích nhau đến đối thoại hiệu quả, chuyển qua các cấp độ đa dạng của sự lãnh đạm nhau. Liên quan đến hai truyền thống tâm linh, Ana Maria Schlüter Rodés biểu hiện những gì bà gọi một cách chính xác là “song ngữ tôn giáo.” Trong cuộc phỏng vấn với Daniel Millet Gil từ Buddhistdoor Global được dịch sang Anh ngữ và đăng trên trang mạng www.buddhistdoor.net hôm 27 tháng 2 năm 2020, Ana Maria nói về con đường tâm tinh và thực hành Thiền của bà trong bối cảnh Thiên Chúa Giáo.
20/02/2020(Xem: 4626)
Lịch sử Phật Giáo thường rất mù mờ. Hơn nữa, những chuyện của khoảng 2 ngàn năm trước đã quá xa xưa, rất khó kết luận chắc nịch được.
13/02/2020(Xem: 8883)
Sau khi Đức Phật thành đạo, ánh sáng giác ngộ của Ngài đã chiếu khắp mọi nơi, hàng vạn người dân Ấn, từ sĩ, nông, công, thương, mọi tầng lớp của xã hội Ấn đều thừa hưởng được kết quả giác ngộ của Ngài. Đến cuối đời của Ngài, Chánh pháp đã có mặt ở khắp Ấn Độ và lan tỏa đến các quốc gia láng giềng. Từ hạ lưu của sông Hằng đi về phía Đông, phía Nam tới bờ sông Caodaveri, phía Tây tới bờ biển Á-rập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro, đâu đâu cũng có sự ảnh hưởng của giáo lý Phật-đà, và người dân nơi ấy sống trong sự hòa bình và hạnh phúc. Trong triều đại của Hoàng Đế Asoka thuộc Vương Triều Maurya (thế kỷ thứ III trước TL), Phật giáo đã bắt đầu truyền bá sang các vùng biên giới của đại lục.
22/01/2020(Xem: 13862)
Đạo Phật và Dòng Sử Việt (sách pdf, tác giả HT Thích Đức Nhuận)
08/11/2019(Xem: 9810)
Như có một cái gì sống lại khi ngồi viết bài này về dòng Thiền Trúc Lâm và núi Bạch Mã. Sự kết hợp giữa tâm linh và thiên nhiên đưa ta vào một khoảnh khoắc tuyệt vời huyền bí khi cảm nhận. Một dòng thiền Việt Nam do ông vua tài giỏi sáng lập và đắc đạo, một núi cao 1450 mét có mây trắng quanh năm trên đỉnh, dưới chân dòng nước lững lờ trôi của hồ Truồi trứ danh yên tịnh. Hai cảnh trí tạo ra cho người đến đây tự hỏi: Ngàn năm mưa gió vẫn bay Trăm năm có đứng chỗ này hay chưa?!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567