Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảnh chùa Huế

10/04/201313:58(Xem: 4835)
Cảnh chùa Huế

Cảnh chùa Huế

Nguyễn Hứu Thái

---o0o---

Cố đô Huế trông giống như một khu vườn lớn, trong đó có những khoảng không gian uy nghi, quan cách, lộng lẫy của những cung điện, đền đài, có những khoảng êm đềm, ấm cúng, thân thiết của những nếp nhà vườn, ngôi đình dân dã và cũng có cả những khoảng tĩnh tại, thanh thoát, lặng lẽ của những cảnh chùa. Ngôi chùa đó gắn liền vào tổng thể kiến trúc Huế, hài hòa như chính đạo Phật đã hòa tan vào lòng đời, lòng người xứ Huế. Tìm hiểu về những ngôi chùa Huế cũng chính là tìm về một phần quan trọng làm nên văn hóa xứ Huế.

NÉT RIÊNG CỦA NẾP CHÙA HUẾ

Chưa có một vùng đất nào trên đất nước ta lại có một mật độ chùa chiền cao như Huế. Quanh Huế có trên một trăm ngôi chùa lớn nhỏ, nhiều ngôi nguy nga có sự đóng góp công sức của triều đình, tầng lớp quý tộc, nhưng cũng không ít ngôi chùa mộc mạc gắn với làng quê của dân gian.

Theo sử sách thì chùa Huế xuất hiện từ thế kỷ XVI, nhưng phải từ khi Nguyễn Hòang vào trấn đất Thuận Hóa và các chúa Nguyễn tiếp theo muốn xây dựng một xứ Ðàng Trong biệt lập với triều đình vua Lê - chúa Trịnh ở phía Bắc, thì các hoạt động văn hóa xã hội được thúc đẩy và chùa được xây dựng nhiều để làm chỗ sinh hoạt tinh thần.

Có thể kể ra đây một số ngôi chùa tiêu biểu: Thiên Mụ (1601), Báo Quốc (1674), Từ Ðàm (1683), Thuyền Tôn (1709), Từ Hiếu (1843), Diệu Ðế (1844), Phước Thọ Am (1831), Trúc Lâm (1909)...

Chùa chiền ở Huế, ngay cả những ngôi chùa triều đình góp công sức xây dựng cũng không bao giờ đồ sộ, xây cất tốn kém, sử dụng quá nhiều công của nhân dân như các ngôi chùa lớn ở phía Bắc: ví như chùa Trăm Gian, chùa Dâu, quy mô to lớn như Quỳnh Lâm (Ðông Triều), Sài Nghiêm (Chí Linh), Hồ Thiên (Kinh Bắc)...

Nếp chùa Huế về cơ bản vẫn tiếp nối truyền thống ngôi chùa Việt, nhưng tinh tế, không đồ sộ, khoa trương, ít rườm rà, không nhiều gian. Ngôi chùa là ngôi nhà rường bình dị, thân thiết, gần gũi dân gian.

Chánh điện thường chỉ khiêm tốn có 3 - 5 gian, 2 chái, cắt mái 2 tầng nên nhẹ nhàng, thanh thóat hơn mái chùa nặng nề phía Bắc. Chái nhà hai bên dành cho phương trượng, trụ trì, giám tự. Tiếp theo chánh điện là chiếc sân trong bao quanh bởi thiền đường, Tăng xá. Vườn chùa trồng cây ăn trái, bố trí tháp mộ các vị Tổ, trụ trì, Tăng chúng. Sau vườn là khu canh tác, trồng hoa màu.

Nội thất chùa bình dị, cân đối và không trang trí sặc sỡ. Ngoài bộ tượng Phật Tam Thế truyền thống, bên tả có Quan Công, bên hữu là Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Về sau, vào thời chấn hưng Phật giáo những năm 1950-63, có cải cách lại hệ thống thờ tự: trước Tam Thế đặt thêm tượng Phật Thích ca, gian tả có Bồ tát Ðịa Tạng, gian hũu có Bồ tát Quan Thế AÂm, tả hữu thì vẫn đặt Kim cang, Hộ pháp.

Từ chùa Huế cũng phát xuất ra các món ăn chay Huế khá phong phú. Nghề đúc chuông ở đây cũng rất độc đáo, cung cấp cho cả các vùng phía Nam và các chùa người mình ở nước ngoài.

DANH LAM XỨ HUẾ

Chùa Thiên Mụ

Tháp Phước Duyên vươn lên trên dòng sông Hương từ lâu đã là biểu tượng xứ Huế. Thực ra tháp chỉ là một phần của cả một tổng thể chùa tháp, tọa lạc trên một khu đồi lớn. Tháp này cao 21m, có 7 tầng, xây cất thời vua Thiệu Trị (1844). Chiếc chuông ở đây cũng rất lớn và cổ kính, đúc vào năm 1710, nặng 2.052kg và cao 2,35m. Chùa Thiên Mụ được sắp vào chùa xây dựng sớm nhất ở Huế, vào năm 1601. Thời vua Gia Long sáng lập triều Nguyễn có vời Hòa thượng Mật Hoằng (chùa Ðại Giác ở thành Gia Ðịnh) về làm Tăng cang tại chùa Thiên Mụ. Hòa thượng Ðôn Hậu nổi tiếng cả nước thời chống Mỹ đã trụ trì chùa này từ năm 1945.

Chùa Báo Quốc

Khu Tổ đình xây dựng từ năm 1674 với một cái am nhỏ, sau nhiều đợt trùng tu của các đời chúa và triều đình Nguyễn đã trở thành một cảnh chùa xây dựng theo hình chữ “khẩu” quy mô khang trang trên diện tích 2ha, nằm ngay sau ga Huế. Từ lâu nay ngôi chùa vẫn được xem như là nơi phát xuất phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ qua, do Hòa thượng Trí Ðộ lãnh đạo. Học đường Linh Quang chuyển về đây vào năm 1948 đã biến chùa thành nơi un đúc Tăng tài cho cả nước. Từ năm 1957, chùa được xây lại mới nhưng bố cục vẫn theo truyền thống.

Chùa Từ Ðàm

Ra đời từ năm 1683, gốc phái Thiền Lâm Tế. Chùa nay xây dựng lại hiện đại, cơ bản vẫn tôn trọng lối bố cục truyền thống nhưng các bộ phận sinh hoạt đã có đổi mới, logic hơn với đầy đủ sân lễ, giảng đường, nhà Tổ, nhà Tăng, nhà khách. Từ lâu, nơi đây đã nổi tiếng với phong trào chấn hưng Phật giáo, từng làm nơi đặt trụ sở của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, năm 1945 là trụ sở của Phật giáo Cứu quốc. Tổ chức Gia đình Thanh niên Phật tử cũng ra đời tại đây. Từ năm 1963, chùa Từ Ðàm trở thành trung tâm đấu tranh của phong trào Phật giáo yêu nước suốt thời gian chống Mỹ ở phía Nam. Tên tuổi Hòa thượng Thích Trí Quang gắn liền với ngôi chùa này qua các mùa pháp nạn.

Chùa Từ Hiếu

Xây dựng từ năm 1843 ở phía Tây cố đô, vị trí gần các lăng tẩm triều Nguyễn, trên một khuôn viên rộng đến 4,5ha. Nguyên là am An Dương, vào năm 1848 các thái giám góp công tu tạo để ký thác tuổi già. Tổng thể chùa khá hoàn chỉnh với nào hồ bán nguyệt, nhà bia, tiền đường, chánh điện, nhà Tổ... Trước cổng chùa có tháp Bồ Ðề dựng từ năm 1896 để chứa những kinh tượng hỏng cho tự hủy. Dãy nhà chư Tăng nghỉ ngơi, nghiên cứu kinh kệ gọi là “Tả Lạc Thiên” và nhà tiếp khách thập phương gọi là “Hữu Ái Nhật”. Nay chùa còn xây mới thêm Thiền đường dành cho người ở xa đến có chỗ nghiên cứu, tu tập.


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2016(Xem: 4279)
Phật giáo Việt Nam đã thể hiện tinh thần đồng hành với dân tộc qua nhiều thời đại. Các Tăng sĩ Việt Nam đã từng thẩm thấu nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị giặc ngoại xâm và đã hết lòng giúp vua giữ nước. Ở đây, chúng ta trở về những hình ảnh tiêu biểu Phật Giáo Đinh, Lê, Lý, Trần để thẩm định tinh thần đạo Phật trong vận mệnh đất nước lâm nguy. Tư tưởng và hành trạng các thiền sư giúp vua giữ nước, an dân là bài học cao quý. Chúng ta cần lắng lòng quán chiếu sâu sắc nỗi khổ của người dân trong hiện tại để có thái độ sống yêu thương và hiểu biết của người con Việt.
19/10/2016(Xem: 5005)
Dưới thời các chúa Nguyễn, Phật giáo ở Đàng Trong nói chung và ở Quảng Nam nói riêng rất phát triển. Hầu hết các chúa đều sùng kính đạo Phật, xem đó là chỗ dựa tinh thần trong sự nghiệp Nam tiến và lập quốc nên các chúa rất chăm lo phát triển Phật giáo, xây dựng nhiều chùa chiền, trọng đãi sư tăng, mở trai đàn, hội chùa, đồng thời tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt Phật giáo.
07/09/2016(Xem: 15988)
Vào năm 2003 khi thảo Vạn Hữu Trường Ca được nửa chừng, bèn nghĩ có lẽ dừng lại để sau này sẽ tiếp để đi vào Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trước, và mọi thể dạng mang sắc thái tình tự, dân tộc, quê hương, nhân sinh, mọi ngõ ngách cuộc đời và nhân thế, các sự kiện diễn ra, nghe tiếng kêu đồng loại,... đã hơn 34 năm qua, dĩ nhiên là văn vần, còn văn xuôi thì ít bởi ít khả năng vốn liếng thiên tư. Đến nay đã gần 1,700 bài khác nhau (một ngàn bảy trăm). Hai tuần trước chợt nhớ Vạn Hữu Trường Ca còn dang dở, dành vài ngày đi nốt và hoàn tất.
09/06/2016(Xem: 8146)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 27139)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
17/05/2016(Xem: 9456)
Ngày Hoan Hỷ, Tập Văn Kỷ Niệm Khóa Huấn Luyện Trụ Trì năm Đinh Dậu 1957_HT Thích Thiện Hòa
05/02/2016(Xem: 5524)
Giới thiệu: Nhân dịp Xuân - Tết Cổ truyền Dân tộc, trân trọng giới thiệu bài viết Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần như là món quà ghi nhớ lại nền lịch sử văn học Việt Nam nói chung và tư tưởng Triết học Phật giáo Việt Nam nói riêng trong các vấn đề về Quốc gia, Dân tộc trong bối cảnh: Phật giáo đã đóng góp gì cho Dân tộc và lịch sử Việt Nam?
19/01/2016(Xem: 5686)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 16497)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
14/12/2015(Xem: 5060)
Kho báu cổ vật trong bảo tàng Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam Hơn 500 cổ vật Phật giáo, trong đó có hiện vật được đánh giá ngang tầm bảo vật quốc gia, đang được trưng bày tại Bảo tàng văn hóa Phật giáo ở Đà Nẵng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567