Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

19/06/201821:00(Xem: 4537)
Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

images1400040_2A

Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

Châu Yến Loan

 

Tộc Bùi ở làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên là một dòng tộc lớn vang danh trong nước không những vì “của nhiều người đông” mà còn vì có lắm nhân tài ở mọi lãnh vực với những tên tuổi chói sáng như nhà báo Bùi Thế Mĩ, bác sĩ Bùi Kiến Tín, thi hào Bùi Giáng, nhà giáo Bùi Tấn v.v… Vị thủy tổ của đại tộc này chính là nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, Tiền hiền làng Vĩnh Trinh.

 

Bùi Tấn Diên quê ở Nghệ An, cho đến nay vẫn không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ XV dưới triều Lê Thánh Tông. Ông đã theo đoàn quân Nam tiến của vua Lê vào Quảng Nam, khai phá vùng đất mới thu phục, lập ra làng Vĩnh Trinh.

 

Huyện Duy Xuyên, trước có tên là huyện Hy Giang thuộc phủ Thăng Hoa nguyên là đất Chiêm động của Chiêm Thành.

 

Thời nhà Hồ, sau khi lên ngôi năm 1402 Hồ Hán Thương đã đem đại binh vượt qua Hải Vân đánh thắng quân Chiêm, chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy mở rộng biên cương đến Quảng Ngãi. Nhà Hồ chia hai động này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị. Họ Hồ hạ lệnh cho dân không có ruộng ở Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ tên châu mình trên cánh tay cho khỏi bỏ trốn. Những người có trâu đem nộp thì được ban phẩm tước để lấy trâu cấp phát cho dân cày.

 

Nhưng chủ trương di dân của nhà Hồ không được lâu dài, chỉ 4,5 năm sau quân Minh nấp dưới chiêu bài phù Trần diệt Hồ sang đánh nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội đó cấu kết với quân Minh lấy lại đất ấy và phần lớn những di dân người Việt vào đây đã phải theo Nguyễn Lỗ trở về Thuận Hóa.

Sau khi chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy, quân Chiêm đánh ra Thuận Hóa. Từ thời Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa thứ II (1444 ) cho đến thời Lê Thánh Tông quân Chiêm đã 4 lần đem quân đánh phá Hoá châu vào các năm Giáp Tý (1444), Ất Sửu (1445), Kỷ Sửu (1469), Canh Dần (1470).

 

Vì thế năm Canh Dần (1470) vua Lê Thánh Tông lại kéo quân qua Hải Vân, tiến thẳng vào kinh đô Trà Bàn đánh quân Chiêm.

 

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tháng 8 năm Canh Dần, Hồng Đức năm thứ nhất (1470) vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn đem 10 vạn quân và một đoàn kỵ binh tấn công châu Hóa. Thủ ngữ Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm Văn Hiển không chống nổi bèn dồn hết dân vào thành để cố thủ và cấp báo về triều đình. Trước tình hình đó, vua Lê Thánh Tông phải xuống chiếu thân chinh. Ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470) bắt đầu xuất quân. Vua sai Chinh lỗ tướng quân Lân Quận Công  Đinh Liệt, Phó tướng Kỳ Quận Công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước, ngày Canh Dần 16 tháng 11 vua đốc suất 15 vạn thủy quân đi tiếp theo.

 

Ngày mồng 2 tháng giêng năm Tân Mão (1471) vua vào tới Thuận Hóa cho quân ra biển tập thủy chiến rồi sai viên quan ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ của Chiêm Thành dâng lên cho vua.

 

Ngày mồng 6, đội quân của Tướng Cang Viễn tấn công phòng tuyến Cu Đê tại phía nam đèo Hải Vân bắt sống tướng Chiêm giữ cửa quan Cu Đê là Bồng Nga Sa.

 

Ngày mồng 5 tháng 2, Trà Toàn sai tướng đem 5.000 quân và voi tiến sát quân của vua, ngay hôm sau vua mật sai đem 500 chiếc thuyền cùng 3 vạn quân tinh nhuệ ban đêm ra cửa Áp (nay là cửa Đại Áp thuộc thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (nay là cửa Tiểu Áp, cách Đại Áp hơn 7 dặm) vượt biển tiến vào Sa Kỳ (thuộc huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) dựng lũy, đắp thành chặn đường về của giặc.

 

Ngày mồng 7, vua thân đem 1.000 chiếc thuyền chiến với hơn 70 vạn quân tinh nhuệ ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa, kéo cờ hiệu thiên tử đánh trống hò reo tiến đi, mặt khác sai Nguyễn Đức Trung dẫn bộ binh đi đường núi. Tướng giặc trông thấy quân của vua, tự tan vỡ, giày xéo lên nhau chạy về Trà Bàn bị quân ta chặn đường đánh, quân Chiêm thất bại chết rất nhiều.

Ngày 27 vua thân đem đại quân đánh phá thành Thị Nại, ngày 28 vây thành Trà Bàn. Ngày 1 tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Trà Bàn, ta  bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn đưa về nước.

 

Sau khi Trà Toàn bị bắt, tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy đến Phiên Lung (tức là Phan Rang ngày nay), giữ lấy đất ấy, xưng là vua Chiêm Thành. Trì Trì lấy được 1 phần 5 đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần tiến cống. Vua phong cho làm vương, Vua lại phong cho Hoa Anh (có lẽ là khoảng giữa Đèo Cả và Bình Định) và Nam Bàn (Ở về phía tây núi Thạch Bi, sau này là Thủy Xá, Hỏa Xá. Nam Bàn có lẽ là miền Buôn Mê Thuộc và Công Tum), làm ba nước, để ràng buộc.

 

Công cuộc bình Chiêm thắng lợi, vua đổi Thăng Châu, Hoa Châu thành ba huyện Hà Đông, Hy Giang và Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa; Tư Châu , Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới đây để làm “đầy biên giới “ (thực biên ) (nguyên chú -Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông-Viện nghiên cứu Hán Nôm ).

 

Ngày mồng 1 tháng 5 năm Tân Mão(1471), làm lễ mừng thắng trận. Với chiến thắng này, nhà vua không những  thực hiện được ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định ).

 

Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đúng như mục đích xuất chinh mà nhà vua đã nói trong câu thơ :

                              “ Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên”

đặt chức Án Sát ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Danh xưng Quảng Nam ra đời từ lúc ấy. Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thống lãnh 3 phủ, 9 huyện (Phủ Thăng Hoa 3 huyện: Lê Giang, Hy Giang và Hà Đông. Phủ Tư Nghĩa 3 huyện: Nghĩa Sơn, Bình Sơn và Mộ Hoa. Phủ Hoài Nhơn 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn), địa bàn từ Quảng Nam đến hết Bình Định ngày nay.

 

Mất các đồng bằng Nam, Nghĩa, Bình Định là những vùng đất rộng rãi, phì nhiêu nhất, Chiêm Thành phải lui về những miền đất khô khan ở phía nam nên từ đây họ đã bước vào con đường suy vong.

 

Khác với lần di dân trước dưới thời nhà Hồ, lần này khi di dân ta đến người Chiêm không rời bỏ quê hương ra đi vì họ biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng nơi mình đang sinh sống và họ cũng không còn hy vọng lấy lại đất đã mất nên chấp nhận lệ thuộc ta .

Cuộc di dân dưới thời Lê Thánh Tông vô cùng quan trọng vì nó vĩnh viễn, người dân yên ổn làm ăn không còn nơm nớp lo sợ người Chiêm đến cướp phá như ở Thuận Hóa trước kia.

 

Trong chiến dịch này, từ đất Hoan Châu (Nghệ An), Bùi Tấn Diên theo đoàn quân nam tiến của vua Lê Thánh Tông giữ nhiệm vụ vừa đồn thủ vừa khai phá những vùng đất mới thu phục được.

 

Sau khi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Phạm Nhữ Tăng cai quản vùng đất biên cương mới mở của Đại Việt với chức Quảng Nam thừa tuyên Đô thống, Thái Úy Trình quốc công Nguyễn Đức Trung làm Đô Ty thừa tuyên Quảng Nam và cử các tướng Nguyễn văn Lang, Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung là những vị tướng tài ba đã từng theo vua bình Chiêm, ở lại khai hoang lập ấp, di dân đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới này. Bùi Tấn Diên và con trai là Bùi Tấn Trường đã ở lại bờ nam của sông Thu Bồn cùng với đoàn di dân trải qua bao gian khổ khai khẩn đất đai lập nên 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù bàn, An Lâm.

 

Trong bài Hoài niệm tổ tiên, ông Bùi Tấn đã viết về lịch sử mở đất của tổ tiên mình

                                                         …… “. BÙI GIA gốc ở NGHỆ AN,

HOAN CHÂU tên cũ, mộ phần còn ghi.

Vào đời HỒNG ĐỨC, HẬU LÊ,

Rời quê, THỈ TỔ quản gì gian truân.

Tôn xưng ngài bằng Đại lang,

TẤN DIÊN tên húy, lên đường cùng con.

Kể chi vượt suối trèo non,

Màn trời chiếu đất hao mòn xiết bao !

Sông Gianh rộng, Hải Vân cao,

Đá mềm chân cứng lần vào QUẢNG NAM.

Bến hiền thuyền đậu quyết tâm,

THĂNG BA, LA THÁP khéo cầm chân ai.

Lần thâu tháng rộng ngày dài,

Cùng chư Tộc khác ra tài khẩn hoang.

Sáu thôn phân định lân bàng,

VĨNH TRINH, LỆ TRẠCH, CÙ BÀN tiếp sau.

AN LÂM, CỔ THÁP, THANH CHÂU,

Lục thôn tự sở bắt đầu tạo chung”….

                          (Bùi Tấn, Hoài niệm tổ tiên)

Bùi Tấn Diên là một trong hai vị Tiền Hiền của hai tộc Bùi và Đào đã sáng lập ra làng Vĩnh Trinh. Bài văn tế quốc văn đọc trong lễ khánh thành từ đường Bùi tộc ngày 20 tháng 2 năm 1992 ở Duy Xuyên cũng có đoạn kể lại con đường lập nghiệp nhiều gian nan và những thành quả lớn lao mà ông đã đóng góp cho huyện Duy Xuyên:

“Theo đoàn Nam tiến, dưới thuở Hậu Lê;

Từ đất Hoan châu chính nơi cựu thổ 

Trên đường lập nghiệp, khi băng ngàn, khi vượt suối, xiết nỗi gian lao;

Đến chốn định cư, có đất rộng, có khe trong, thuận bề quy tụ.

Xây đình mở chợ, đống lương góp sức, Lục châu tự sở, bia cũ từng ghi ;

Đắp đập khai hoang, kiến thiết ra công, xã hiệu Bình Khương , tên xưa từ đó.

Ngay khi mới lập ra làng xã, Bùi Tấn Diên và Bùi Tấn Trường cùng cư dân Lục thôn đã dựng Đình Châu để làm nơi sinh hoạt chung của 6 thôn. Ban đầu đình dựng bằng tranh, lâu năm bị hư hỏng đến năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) mới được tái thiết và dựng bia kỷ niệm.

Bài minh khắc trên bia đá dựng vào tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) để kỷ niệm công cuộc trùng tu Đình Châu – đình Lục thôn – có đoạn ca ngợi sự đóng góp lớn lao của Bùi Tấn Trường trong công cuộc xây dựng đình làng:

Thiết duy: Bổn châu tiền đợi Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình. Địa linh nhân kiệt, đại chấn châu lý chi phong, cận duyệt viễn lai, hội vi nhật trung chi thị, trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại, tắc tuy di chỉ thượng tồn, nhi điện vũ đại bất như sơ. Tư dục tái khoách tiền quy, dĩ chiêu thần đức. Đệ niệm Bổn châu lịch niên đồ thán, vật lực duy nan. An đắc nhất như Bùi Quý công giả, tái vi thạnh cử tai !...

Qua đoạn bi ký này, ta có thể hiểu đại cương là:

“Nguyên châu chúng ta ngày trước có Ngài Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo đình sở. Đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn. Người gần lấy làm hài lòng, kẻ xa rủ nhau kéo đến, họp thành chợ đông vào lúc ban trưa, đến nay chưa ai quên vậy. Nhưng đình tranh dựng đã lâu năm, rui mè không khỏi mục nát; nền móng còn đấy, nhưng chánh điện không được như xưa. Nay muốn trùng tu lại để phát huy công đức của Thần linh. Song mấy năm gần đây, châu chúng ta làm ăn khó khăn, vật lực khan hiếm. Giá được một vị hảo tâm như Ngài Bùi Quý công ngày trước thì quý hóa và đáng được ca ngợi biết bao!”(Trích theo gia phả Bùi tộc Vĩnh Trinh).

Trong Cung lục gia phả họ Bùi ở Duy Xuyên cũng ghi:

“Ngài thủy tổ Bùi Đại lang, húy Tấn Diên, ngày xưa từ Hoan Châu, Nghệ An vào Thăng Hoa phủ, Ba Châu thuộc, sinh ra ngài Cao cao tổ Bùi Quí công, húy Tấn Trường khai khẩn ra xã hiệu Bình Khương và rạng rỡ thay! phúc ấm dồi dào, đời đời kế tiếp.

Đến triều Gia Long, xã hiệu Bình Khương đổi thành Bình Thuận. Gần đây, xã hiệu Bình Thuận lại được đổi thành Vĩnh Trinh. Sự nghiệp của ông cha ta ngày xưa không phải là không to tát.”

 Bùi Tấn Diên không những đã có công lớn trong sự nghiệp khai khẩn, mở mang huyện Duy Xuyên, biến vùng đất biên cương mới thu phục thành làng mạc trù phú mà ông còn là thủy tổ của một dòng tộc có lắm nhân tài thành công trên nhiều lãnh vực.

 

                                                                   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3534)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28337)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8439)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3547)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4278)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7298)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4887)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14169)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5894)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2558)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567