Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

19/06/201821:00(Xem: 4470)
Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

images1400040_2A

Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

Châu Yến Loan

 

Tộc Bùi ở làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên là một dòng tộc lớn vang danh trong nước không những vì “của nhiều người đông” mà còn vì có lắm nhân tài ở mọi lãnh vực với những tên tuổi chói sáng như nhà báo Bùi Thế Mĩ, bác sĩ Bùi Kiến Tín, thi hào Bùi Giáng, nhà giáo Bùi Tấn v.v… Vị thủy tổ của đại tộc này chính là nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, Tiền hiền làng Vĩnh Trinh.

 

Bùi Tấn Diên quê ở Nghệ An, cho đến nay vẫn không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ XV dưới triều Lê Thánh Tông. Ông đã theo đoàn quân Nam tiến của vua Lê vào Quảng Nam, khai phá vùng đất mới thu phục, lập ra làng Vĩnh Trinh.

 

Huyện Duy Xuyên, trước có tên là huyện Hy Giang thuộc phủ Thăng Hoa nguyên là đất Chiêm động của Chiêm Thành.

 

Thời nhà Hồ, sau khi lên ngôi năm 1402 Hồ Hán Thương đã đem đại binh vượt qua Hải Vân đánh thắng quân Chiêm, chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy mở rộng biên cương đến Quảng Ngãi. Nhà Hồ chia hai động này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị. Họ Hồ hạ lệnh cho dân không có ruộng ở Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ tên châu mình trên cánh tay cho khỏi bỏ trốn. Những người có trâu đem nộp thì được ban phẩm tước để lấy trâu cấp phát cho dân cày.

 

Nhưng chủ trương di dân của nhà Hồ không được lâu dài, chỉ 4,5 năm sau quân Minh nấp dưới chiêu bài phù Trần diệt Hồ sang đánh nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội đó cấu kết với quân Minh lấy lại đất ấy và phần lớn những di dân người Việt vào đây đã phải theo Nguyễn Lỗ trở về Thuận Hóa.

Sau khi chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy, quân Chiêm đánh ra Thuận Hóa. Từ thời Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa thứ II (1444 ) cho đến thời Lê Thánh Tông quân Chiêm đã 4 lần đem quân đánh phá Hoá châu vào các năm Giáp Tý (1444), Ất Sửu (1445), Kỷ Sửu (1469), Canh Dần (1470).

 

Vì thế năm Canh Dần (1470) vua Lê Thánh Tông lại kéo quân qua Hải Vân, tiến thẳng vào kinh đô Trà Bàn đánh quân Chiêm.

 

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tháng 8 năm Canh Dần, Hồng Đức năm thứ nhất (1470) vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn đem 10 vạn quân và một đoàn kỵ binh tấn công châu Hóa. Thủ ngữ Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm Văn Hiển không chống nổi bèn dồn hết dân vào thành để cố thủ và cấp báo về triều đình. Trước tình hình đó, vua Lê Thánh Tông phải xuống chiếu thân chinh. Ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470) bắt đầu xuất quân. Vua sai Chinh lỗ tướng quân Lân Quận Công  Đinh Liệt, Phó tướng Kỳ Quận Công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước, ngày Canh Dần 16 tháng 11 vua đốc suất 15 vạn thủy quân đi tiếp theo.

 

Ngày mồng 2 tháng giêng năm Tân Mão (1471) vua vào tới Thuận Hóa cho quân ra biển tập thủy chiến rồi sai viên quan ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ của Chiêm Thành dâng lên cho vua.

 

Ngày mồng 6, đội quân của Tướng Cang Viễn tấn công phòng tuyến Cu Đê tại phía nam đèo Hải Vân bắt sống tướng Chiêm giữ cửa quan Cu Đê là Bồng Nga Sa.

 

Ngày mồng 5 tháng 2, Trà Toàn sai tướng đem 5.000 quân và voi tiến sát quân của vua, ngay hôm sau vua mật sai đem 500 chiếc thuyền cùng 3 vạn quân tinh nhuệ ban đêm ra cửa Áp (nay là cửa Đại Áp thuộc thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (nay là cửa Tiểu Áp, cách Đại Áp hơn 7 dặm) vượt biển tiến vào Sa Kỳ (thuộc huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) dựng lũy, đắp thành chặn đường về của giặc.

 

Ngày mồng 7, vua thân đem 1.000 chiếc thuyền chiến với hơn 70 vạn quân tinh nhuệ ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa, kéo cờ hiệu thiên tử đánh trống hò reo tiến đi, mặt khác sai Nguyễn Đức Trung dẫn bộ binh đi đường núi. Tướng giặc trông thấy quân của vua, tự tan vỡ, giày xéo lên nhau chạy về Trà Bàn bị quân ta chặn đường đánh, quân Chiêm thất bại chết rất nhiều.

Ngày 27 vua thân đem đại quân đánh phá thành Thị Nại, ngày 28 vây thành Trà Bàn. Ngày 1 tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Trà Bàn, ta  bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn đưa về nước.

 

Sau khi Trà Toàn bị bắt, tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy đến Phiên Lung (tức là Phan Rang ngày nay), giữ lấy đất ấy, xưng là vua Chiêm Thành. Trì Trì lấy được 1 phần 5 đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần tiến cống. Vua phong cho làm vương, Vua lại phong cho Hoa Anh (có lẽ là khoảng giữa Đèo Cả và Bình Định) và Nam Bàn (Ở về phía tây núi Thạch Bi, sau này là Thủy Xá, Hỏa Xá. Nam Bàn có lẽ là miền Buôn Mê Thuộc và Công Tum), làm ba nước, để ràng buộc.

 

Công cuộc bình Chiêm thắng lợi, vua đổi Thăng Châu, Hoa Châu thành ba huyện Hà Đông, Hy Giang và Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa; Tư Châu , Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới đây để làm “đầy biên giới “ (thực biên ) (nguyên chú -Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông-Viện nghiên cứu Hán Nôm ).

 

Ngày mồng 1 tháng 5 năm Tân Mão(1471), làm lễ mừng thắng trận. Với chiến thắng này, nhà vua không những  thực hiện được ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định ).

 

Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đúng như mục đích xuất chinh mà nhà vua đã nói trong câu thơ :

                              “ Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên”

đặt chức Án Sát ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Danh xưng Quảng Nam ra đời từ lúc ấy. Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thống lãnh 3 phủ, 9 huyện (Phủ Thăng Hoa 3 huyện: Lê Giang, Hy Giang và Hà Đông. Phủ Tư Nghĩa 3 huyện: Nghĩa Sơn, Bình Sơn và Mộ Hoa. Phủ Hoài Nhơn 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn), địa bàn từ Quảng Nam đến hết Bình Định ngày nay.

 

Mất các đồng bằng Nam, Nghĩa, Bình Định là những vùng đất rộng rãi, phì nhiêu nhất, Chiêm Thành phải lui về những miền đất khô khan ở phía nam nên từ đây họ đã bước vào con đường suy vong.

 

Khác với lần di dân trước dưới thời nhà Hồ, lần này khi di dân ta đến người Chiêm không rời bỏ quê hương ra đi vì họ biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng nơi mình đang sinh sống và họ cũng không còn hy vọng lấy lại đất đã mất nên chấp nhận lệ thuộc ta .

Cuộc di dân dưới thời Lê Thánh Tông vô cùng quan trọng vì nó vĩnh viễn, người dân yên ổn làm ăn không còn nơm nớp lo sợ người Chiêm đến cướp phá như ở Thuận Hóa trước kia.

 

Trong chiến dịch này, từ đất Hoan Châu (Nghệ An), Bùi Tấn Diên theo đoàn quân nam tiến của vua Lê Thánh Tông giữ nhiệm vụ vừa đồn thủ vừa khai phá những vùng đất mới thu phục được.

 

Sau khi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Phạm Nhữ Tăng cai quản vùng đất biên cương mới mở của Đại Việt với chức Quảng Nam thừa tuyên Đô thống, Thái Úy Trình quốc công Nguyễn Đức Trung làm Đô Ty thừa tuyên Quảng Nam và cử các tướng Nguyễn văn Lang, Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung là những vị tướng tài ba đã từng theo vua bình Chiêm, ở lại khai hoang lập ấp, di dân đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới này. Bùi Tấn Diên và con trai là Bùi Tấn Trường đã ở lại bờ nam của sông Thu Bồn cùng với đoàn di dân trải qua bao gian khổ khai khẩn đất đai lập nên 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù bàn, An Lâm.

 

Trong bài Hoài niệm tổ tiên, ông Bùi Tấn đã viết về lịch sử mở đất của tổ tiên mình

                                                         …… “. BÙI GIA gốc ở NGHỆ AN,

HOAN CHÂU tên cũ, mộ phần còn ghi.

Vào đời HỒNG ĐỨC, HẬU LÊ,

Rời quê, THỈ TỔ quản gì gian truân.

Tôn xưng ngài bằng Đại lang,

TẤN DIÊN tên húy, lên đường cùng con.

Kể chi vượt suối trèo non,

Màn trời chiếu đất hao mòn xiết bao !

Sông Gianh rộng, Hải Vân cao,

Đá mềm chân cứng lần vào QUẢNG NAM.

Bến hiền thuyền đậu quyết tâm,

THĂNG BA, LA THÁP khéo cầm chân ai.

Lần thâu tháng rộng ngày dài,

Cùng chư Tộc khác ra tài khẩn hoang.

Sáu thôn phân định lân bàng,

VĨNH TRINH, LỆ TRẠCH, CÙ BÀN tiếp sau.

AN LÂM, CỔ THÁP, THANH CHÂU,

Lục thôn tự sở bắt đầu tạo chung”….

                          (Bùi Tấn, Hoài niệm tổ tiên)

Bùi Tấn Diên là một trong hai vị Tiền Hiền của hai tộc Bùi và Đào đã sáng lập ra làng Vĩnh Trinh. Bài văn tế quốc văn đọc trong lễ khánh thành từ đường Bùi tộc ngày 20 tháng 2 năm 1992 ở Duy Xuyên cũng có đoạn kể lại con đường lập nghiệp nhiều gian nan và những thành quả lớn lao mà ông đã đóng góp cho huyện Duy Xuyên:

“Theo đoàn Nam tiến, dưới thuở Hậu Lê;

Từ đất Hoan châu chính nơi cựu thổ 

Trên đường lập nghiệp, khi băng ngàn, khi vượt suối, xiết nỗi gian lao;

Đến chốn định cư, có đất rộng, có khe trong, thuận bề quy tụ.

Xây đình mở chợ, đống lương góp sức, Lục châu tự sở, bia cũ từng ghi ;

Đắp đập khai hoang, kiến thiết ra công, xã hiệu Bình Khương , tên xưa từ đó.

Ngay khi mới lập ra làng xã, Bùi Tấn Diên và Bùi Tấn Trường cùng cư dân Lục thôn đã dựng Đình Châu để làm nơi sinh hoạt chung của 6 thôn. Ban đầu đình dựng bằng tranh, lâu năm bị hư hỏng đến năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) mới được tái thiết và dựng bia kỷ niệm.

Bài minh khắc trên bia đá dựng vào tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) để kỷ niệm công cuộc trùng tu Đình Châu – đình Lục thôn – có đoạn ca ngợi sự đóng góp lớn lao của Bùi Tấn Trường trong công cuộc xây dựng đình làng:

Thiết duy: Bổn châu tiền đợi Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình. Địa linh nhân kiệt, đại chấn châu lý chi phong, cận duyệt viễn lai, hội vi nhật trung chi thị, trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại, tắc tuy di chỉ thượng tồn, nhi điện vũ đại bất như sơ. Tư dục tái khoách tiền quy, dĩ chiêu thần đức. Đệ niệm Bổn châu lịch niên đồ thán, vật lực duy nan. An đắc nhất như Bùi Quý công giả, tái vi thạnh cử tai !...

Qua đoạn bi ký này, ta có thể hiểu đại cương là:

“Nguyên châu chúng ta ngày trước có Ngài Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo đình sở. Đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn. Người gần lấy làm hài lòng, kẻ xa rủ nhau kéo đến, họp thành chợ đông vào lúc ban trưa, đến nay chưa ai quên vậy. Nhưng đình tranh dựng đã lâu năm, rui mè không khỏi mục nát; nền móng còn đấy, nhưng chánh điện không được như xưa. Nay muốn trùng tu lại để phát huy công đức của Thần linh. Song mấy năm gần đây, châu chúng ta làm ăn khó khăn, vật lực khan hiếm. Giá được một vị hảo tâm như Ngài Bùi Quý công ngày trước thì quý hóa và đáng được ca ngợi biết bao!”(Trích theo gia phả Bùi tộc Vĩnh Trinh).

Trong Cung lục gia phả họ Bùi ở Duy Xuyên cũng ghi:

“Ngài thủy tổ Bùi Đại lang, húy Tấn Diên, ngày xưa từ Hoan Châu, Nghệ An vào Thăng Hoa phủ, Ba Châu thuộc, sinh ra ngài Cao cao tổ Bùi Quí công, húy Tấn Trường khai khẩn ra xã hiệu Bình Khương và rạng rỡ thay! phúc ấm dồi dào, đời đời kế tiếp.

Đến triều Gia Long, xã hiệu Bình Khương đổi thành Bình Thuận. Gần đây, xã hiệu Bình Thuận lại được đổi thành Vĩnh Trinh. Sự nghiệp của ông cha ta ngày xưa không phải là không to tát.”

 Bùi Tấn Diên không những đã có công lớn trong sự nghiệp khai khẩn, mở mang huyện Duy Xuyên, biến vùng đất biên cương mới thu phục thành làng mạc trù phú mà ông còn là thủy tổ của một dòng tộc có lắm nhân tài thành công trên nhiều lãnh vực.

 

                                                                   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2010(Xem: 8404)
Quyển Khóa Hư Lục Giảng Giải này ra đời do lòng nhiệt tình, tâm tha thiết mong muốn có một “Pho Sách Phật Giáo Việt Nam” thật sự ViệtNam của chúng tôi. Bao nhiêu năm rồi, chúng tôi ao ước những tư liệu Phật giáoViệt Nam còn sót lại được dịch ra chữ quốc ngữ để cho người sau có phương tiệntham khảo học tập.
26/10/2010(Xem: 3298)
QUYẾT ĐỊNH chuẩn y của Hội Đồng Giáo Phẩm về thành phần nhân sự Hội Đồng Điều Hành nhiệm kỳ II
19/10/2010(Xem: 4192)
Suốt bốn mươi năm qua, khi đề cập đến sinh hoạt của Phật Giáo Việt nam, chúng ta không thể không nói đến GHPGVNTN. Bởi vì trong bốn thập niên đó, GHPGVNTN đã đóng góp xứng đáng công sức của mình cho sự nghiệp hoằng dương Chánh Pháp và phát triển đất nước. Chính vì vậy mà GHPGVNTN đã nghiễm nhiên trở thành là một thực thể xã hội trong cộng đồng dân tộc Việt nam. Do đó, trải qua gần ba thập kỷ, mặc dù đảng cộng sản Việt nam đã sử dụng biết bao phương chước để tàn hại Giáo Hội, vẫn không làm sao có thể tiêu diệt được. GHPGVNTN vẫn tồn tại với bi nguyện và hùng lực của truyền thống lịch sử Phật giáo Việt nam. Để có cái nhìn quán triệt hơn về GHPGVNTN chúng ta cần lược qua bối cảnh lịch sử hình thành và những cuộc vận động của Giáo Hội từ bốn thập kỷ nay.
11/10/2010(Xem: 6287)
Hạnh phúc tôi nhỏ nhoi Một góc đời xa lạ Như một thoáng môi cười Ngọt ngào xanh mắt lá.
09/10/2010(Xem: 6350)
Tinh thần khoan dung của Phật giáo đã có tác dụng làm mềm hoá lịch sử, đồng thời cho thấy những “đúng - sai”, “công - tội” nơi mỗi con người không phải là điều bất biến.
04/10/2010(Xem: 5299)
Lời Sám Nguyện: ST.NS: Chúc Linh: Lời: Tâm Nguyệt: Pháp Danh: SDNTN:Nhuận Hải: CS: Lâm Minh Chi. http://www.quangnghiemtu.com
03/10/2010(Xem: 8900)
Thiên Thai giáo quán tông, Thiên Thai một tông chuyên xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm luận ghi rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả xa bái Long Thọ làm sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ thứ hai; Huệ Văn truyền xuống Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư truyền cho Trí NghiễmĐức An (Trí Giả), Trí Giả là tổ thứ tư. Lấy nhất niệm hoằng truyền 3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở quan quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai ở Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai.
30/09/2010(Xem: 3720)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
26/09/2010(Xem: 6455)
Phật Quốc Ký Sự
16/05/2010(Xem: 4456)
Trải qua chiều dài lịch sử, Phật Giáo Việt Nam hòa hợp với cuộc sống dân tộc để trở thành Việt Phật đầy tính dân tộc, thể hiện trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị và văn hóa. Bài này, trích trong một cuốn sách sẽ xuất bản trong tương lai, chỉ đủ thời lượng để trình bày một khía cạnh, “Tính dân tộc của Việt Phật trong lãnh vực chính trị”, xét theo nhãn quan của khoa chính trị-xã hội học mới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567