Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương II: Lâm Tỳ Ni

26/09/201020:00(Xem: 3962)
Chương II: Lâm Tỳ Ni

image004_lamtini_684001294Lâm Tỳ Ni, phạn ngữ là Lumbini, xưa kia là khu vườn xinh đẹp của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hiện nay vị trí khu vườn này nằm trên phần đất của Nepal, tiếp giáp biên giới, chỉ cách Ấn Độ khoảng 30 Km. Lâm Tỳ Ni , nơi đản sinh một Đức Phật, nằm dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn, các sách thường ghi cách thành Ca Tỳ La Vệ cũ khoảng 15 km, rất có thể là đường chim bay, trên thực tế phải đi vòng bằng đường lộ nhựa khoảng 40km.

1. Chùa Việt Nam, nơi hội ngộ loài chim quý

image002_lamtini1_336144647

Chim Hồng Hạc. Ảnh: Tâm Bửu 

Khoảng 9 giờ sáng, trên đường đến vườn Lâm Tỳ Ni, đoàn chúng tôi có viếng thăm Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa Việt Nam, chùa quốc tế đầu tiên trên đất Phật thuộc Nepal, do hòa thượng Huyền Diệu sáng lập. Hòa thượng là một tu sĩ Việt Nam đầu tiên kêu gọi Phật giáo các nước khôi phục lại thánh tích Phật giáo ở Nepal và Ấn Độ trong thời cận đại. May mắn thay, tại ngôi chùa này, lần đầu tiên tôi gặp được vài con chim hồng hạc đang đi trong khuôn viên chùa. Trước kia tôi chỉ biết được loài chim này qua tác phẩm Khi Hồng Hạc Bay Về, tác giả Người Làm Vườn, tức bút danh của hòa thượng Huyền Diệu. Sau đó, vào năm 2005 tôi có dịp chiêm bái đất Phật một lần, kính viếng hòa thượng nhưng cũng không có cơ hội gặp loài chim quý hiếm này. Hôm nay, tại khuôn viên chùa chúng tôi nhận thấy có khoảng ba con hồng hạc đang đi lang thang trong ao nước cạn. Không thể bỏ qua cơ hội, chúng tôi ghi một vài hình ảnh thực về loài chim này. Chúng cao khoảng 1,6m, chân khẳng khiu như cò, nhưng lớn gấp trăm lần cò, cổ cũng vậy. Đặc biệt là vùng cổ có viền đỏ, vì vậy mọi người gọi chim này là chim hồng hạc (chim hạc cổ đỏ). Chúng rất dạn dĩ, hiền lành, không thấy sợ người, chắc quen ở chùa có nhiều khách hành hương thăm viếng và ngắm nhìn chúng. Nó cũng có những vũ điệu đặc trưng như loài chim công hay những loại chim khác. Khi chúng tôi đến thấy chúng dạo những vũ khúc rất tự nhiên, rất sinh động. Chúng thích đời sống ẩm ướt, cho nên trong khuôn viên chùa có vũng nước to, cạn để dành riêng cho chúng sinh hoạt hàng ngày. Sau khi quan sát và ghi hình lưu niệm, đoàn chúng tôi vào bên trong lễ Phật, tham quan quanh khu vực chùa và tiếp tục lên đường đến vườn Lâm Tỳ Ni, cách chùa khoảng 3km.

2. Vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Phật đản sanh

image004_lamtini_684001294

Lâm Tỳ Ni là một trong bốn thánh tích được xem như quan trọng nhất của Phật giáo, gọi là tứ động tâm. Tứ động tâm gồm: Lâm Tỳ Ni thuộc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) thuộc Ma Kiệt Đà (Magadha), Lộc Uyển nơi chuyển pháp luân xứ Ba La Nại (Benares), và Câu Thi Na (Kushinagar) thuộc cộng hòa Malla (bang Bihar ngày nay), nơi đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn. Bốn thánh tích trọng đại này được cô đọng trong bốn câu rất dễ nhớ:

“Đản sanh Ca Tỳ La

Thành đạo Ma Kiệt Đà

Thuyết pháp Ba La Nại

Niết Bàn Câu Thi Na”.

Lâm Tỳ Ni, phạn ngữ là Lumbini, xưa kia là khu vườn xinh đẹp của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hiện nay vị trí khu vườn này nằm trên phần đất của Nepal, tiếp giáp biên giới, chỉ cách Ấn Độ khoảng 30 Km. Lâm Tỳ Ni , nơi đản sinh một Đức Phật, nằm dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn, các sách thường ghi cách thành Ca Tỳ La Vệ cũ khoảng 15 km, rất có thể là đường chim bay, trên thực tế phải đi vòng bằng đường lộ nhựa khoảng 40km.

Theo phong tục Ấn Độ, người con gái sắp đến ngày sinh nở phải trở về quê mẹ, hoàng hậu Ma Da cũng không ngoại lệ. Trên đoạn đường về quê, khi ngang qua khu vườn Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy tâm trạng thư thái nhẹ nhàng, niềm vui lâng lâng khó tả giữa những tiếng chim đủ loại reo hót trên các cành cây như đón chào bà, một thánh mẫu đang mang thánh thai. Ánh bình minh tỏ rạng, những tia nắng hồng ban mai xuyên qua các cành cây cổ thụ để lại những vệt sáng dài trên cỏ, làm long lanh những giọt sương dường như còn đang say ngủ trong buổi sáng êm ả đẹp trời. Trong lúc đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật quanh khu vườn, giữa bao kì hoa dị thảo, bỗng nhiên bà cảm thấy nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ bắt đầu xảy ra và phải xảy ra tại nơi này. Bà liền với tay nắm cành cây vô ưu để vững vàng trong giây phút chuyển dạ đột ngột. Bà liền cho thị nữ căng màng, trải một nơi nằm tạm thời cho giờ phút thiêng liêng, sự chờ đợi nức lòng của cả chư thiên và loài người, hay đúng hơn chính là sự mong mỏi của vua Tịnh Phạn và toàn dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Bà hạ sinh một hoàng nam khôi ngô tuấn tú, một đấng trượng phu xuất cách được biểu hiện ngay từ lúc sơ sinh. Tương truyền rằng, khi sinh thái tử, lúc đó trái đất rung chuyển bảy lần, nhạc trời rềnh vang cả hư không, muôn chim bay lượn khắp trời, cây cối trong vườn xinh tươi hẳn lên và đức Bồ Tát hạ sinh từ hông phải của mẹ, bước đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân. Ngài dõng dạt tuyên ngôn: “Thiên Thượng Thiên Hạ, Duy Ngã Độc Tôn, Vô Lượng Sinh Tử, Ư Kim Tận Hỷ”[1] - Trên trời dưới trời, sự giác ngộ là trên hết. Mọi trói cột của sanh tử, đời này đoạn diệt hết.

Sau đó, đoàn tùy tùng đưa bà hồi kinh, trước sự đón rước mừng vui, reo hò của thần dân trong kinh thành. Và người vui mừng tột độ không ai khác hơn là vua Tịnh Phạn, một người đã ngày đêm khẩn cầu để có được hoàng nam xứng đáng kế thừa vương vị. Lúc ấy vào ngày trăng tròn tháng Vesak Ấn Độ, tương đương rằm tháng tư âm lịch, năm 623 (hoặc 624) trước kỷ nguyên Tây lịch.

Hiện nay, tại vườn Lâm Tỳ Ni vị trí quan trọng nhất đang được xây kín lại để chống xói mòn và hư hoại. Bên trong là những nền gạch cũ mục, một vài chỗ phải được chống đỡ để khỏi bị sụp đổ. Những vết tích cổ xưa như dấu chân vẫn còn in trên đá, được xác định là vị trí lúc Đức Phật đản sinh. Trên bờ tường gạch kề bên dấu chân Phật, cách mặt đất khoảng 3m có một bức phù điêu rất xinh đẹp khắc hình hoàng hậu Ma Da trong tư thế đứng đang đưa tay vịnh cành cây vô ưu, phía trước có hình thái tử đản sinh và xung quanh có những thị nữ đang đứng hầu.

Quang cảnh xung quanh Lâm Tỳ Ni ít nhiều cũng có bàn tay chăm sóc của con người. Bên cạnh nền gạch cũ còn sót lại, một vài cây xanh vươn mình che bóng mát khiêm tốn trong khoảng trống giới hạn; vài khóm hoa cùng đua sắc màu trong bầu trời xuân tươi đẹp. Bao nhiêu đó cũng làm cho khu thánh địa Lâm Tỳ Ni gợi lên được sức sống tiềm ẩn, cố chờ đợi sự huy hoàng sẽ được lập lại tại khu thánh địa này, nơi đánh dấu sự ra đời của bậc vĩ nhân.

3. Trụ đá Vua A Dục (Asoka)

image005_lamtini-content

Lâm Tỳ Ni, vườn ngự uyển với bao kì hoa dị thảo, đẹp đẽ lạ thường hôm nào không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại một vài cây cỏ lác đác quanh khu vực và một vài phế tích được tìm thấy bởi các nhà khảo cổ. May mắn thay cho người con Phật chúng ta, cho những người muốn tìm hiểu về sự thật Phật giáo, một thánh tích dù không còn nguyên vẹn, nhưng nó đã chứng thật với lịch sử, vẫn hiên ngang với trời đất, vẫn tự hào với tất cả mọi tôn giáo được tô vẽ bằng huyền thoại. Đặc biệt nhất là trụ đá của vua Asoka, một vị vua Phật tử đã làm rạng danh Phật pháp trong suốt triều đại của ông, khoảng thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên Tây lịch. Nhờ những thạch trụ và các dòng chữ còn ghi lại trên bia ký, mà mọi người còn biết được vị trí chính xác của các thánh tích Phật giáo, đồng thời cũng là những bằng chứng xác thực cho Phật giáo ngày nay và mãi đến ngàn sau. Nội dung của bia ký được khắc trên trụ đá này bằng chữ Brahmi, đại khái như sau: “Vào năm thứ 20 kể từ khi vua Piyadassi (vua A Dục) đăng quang, chính ông thân hành đến đây để chiêm bái, cúng dường. Bởi đức Phật Thích Ca, thánh nhân của dòng Sakyā được sinh ra nơi này. Ông cho dựng trụ đá để đánh dấu nơi đản sinh của Phật. Dân làng tại Lâm Tỳ Ni được giảm thuế, chỉ đóng một phần tám sản phẩm thu hoạch”.

Đoàn chúng tôi làm lễ trước thạch trụ, tưởng niệm đến sự kiện đản sinh của đức từ phụ Thích Ca hơn 2500 năm về trước, nguyện cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an cư lạc nghiệp và nguyện Phật pháp sẽ được trùng hưng nơi Ấn Độ, cái nôi của Phật giáo khắp cả năm châu.

4. Hồ nước và cội Bồ Đề

Cách trụ đá khoảng 50 m có một cái hồ nước vuông, bên cạnh hồ nước có một cây Bồ Đề rất lớn. Được tương truyền rằng, tại đây hoàng hậu Ma Da đã tắm trong hồ nước này sau khi lâm bồn. Chúng tôi thiết nghĩ, hồ nước này xưa kia chỉ là hồ đất, nhưng nay được xây dựng lại bằng xi măng và có các cấp bậc đi xuống đáy hồ một cách dễ dàng. Nước hồ trong xanh và mặt hồ yên tĩnh nên luôn phản chiếu các cảnh vật xung quanh, dù cách xa như ngôi nhà bao bọc khu khai quật phế tích hay những cành lá Bồ Đề vươn dài trên bờ hồ đều phản chiếu một màu xanh biếc dưới bầu trời trong yên ả. Ngồi dưới tàng cây Bồ Đề râm mát bên bờ hồ, chúng ta cảm thấy thật dễ chịu và nên thơ làm sao! Rất tiếc, chúng tôi không phải nhà thơ nên không thể xuất vài vần thơ làm kỷ niệm. Và rồi thời gian không cho phép nán lại lâu hơn nữa, đoàn chúng tôi tiếp tục lên đường đến Câu Thi Na (Kusinagar), nơi đức Thế Tôn nhập Vô Dư Niết Bàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2016(Xem: 4857)
Phật giáo Việt Nam đã thể hiện tinh thần đồng hành với dân tộc qua nhiều thời đại. Các Tăng sĩ Việt Nam đã từng thẩm thấu nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị giặc ngoại xâm và đã hết lòng giúp vua giữ nước. Ở đây, chúng ta trở về những hình ảnh tiêu biểu Phật Giáo Đinh, Lê, Lý, Trần để thẩm định tinh thần đạo Phật trong vận mệnh đất nước lâm nguy. Tư tưởng và hành trạng các thiền sư giúp vua giữ nước, an dân là bài học cao quý. Chúng ta cần lắng lòng quán chiếu sâu sắc nỗi khổ của người dân trong hiện tại để có thái độ sống yêu thương và hiểu biết của người con Việt.
19/10/2016(Xem: 5643)
Dưới thời các chúa Nguyễn, Phật giáo ở Đàng Trong nói chung và ở Quảng Nam nói riêng rất phát triển. Hầu hết các chúa đều sùng kính đạo Phật, xem đó là chỗ dựa tinh thần trong sự nghiệp Nam tiến và lập quốc nên các chúa rất chăm lo phát triển Phật giáo, xây dựng nhiều chùa chiền, trọng đãi sư tăng, mở trai đàn, hội chùa, đồng thời tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt Phật giáo.
07/09/2016(Xem: 20246)
Vào năm 2003 khi thảo Vạn Hữu Trường Ca được nửa chừng, bèn nghĩ có lẽ dừng lại để sau này sẽ tiếp để đi vào Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trước, và mọi thể dạng mang sắc thái tình tự, dân tộc, quê hương, nhân sinh, mọi ngõ ngách cuộc đời và nhân thế, các sự kiện diễn ra, nghe tiếng kêu đồng loại,... đã hơn 34 năm qua, dĩ nhiên là văn vần, còn văn xuôi thì ít bởi ít khả năng vốn liếng thiên tư. Đến nay đã gần 1,700 bài khác nhau (một ngàn bảy trăm). Hai tuần trước chợt nhớ Vạn Hữu Trường Ca còn dang dở, dành vài ngày đi nốt và hoàn tất.
09/06/2016(Xem: 9450)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 31663)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
17/05/2016(Xem: 12241)
Ngày Hoan Hỷ, Tập Văn Kỷ Niệm Khóa Huấn Luyện Trụ Trì năm Đinh Dậu 1957_HT Thích Thiện Hòa
05/02/2016(Xem: 7600)
Giới thiệu: Nhân dịp Xuân - Tết Cổ truyền Dân tộc, trân trọng giới thiệu bài viết Từ Quốc tộ đến bài thơ Thần như là món quà ghi nhớ lại nền lịch sử văn học Việt Nam nói chung và tư tưởng Triết học Phật giáo Việt Nam nói riêng trong các vấn đề về Quốc gia, Dân tộc trong bối cảnh: Phật giáo đã đóng góp gì cho Dân tộc và lịch sử Việt Nam?
19/01/2016(Xem: 6594)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 19725)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
14/12/2015(Xem: 5473)
Kho báu cổ vật trong bảo tàng Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam Hơn 500 cổ vật Phật giáo, trong đó có hiện vật được đánh giá ngang tầm bảo vật quốc gia, đang được trưng bày tại Bảo tàng văn hóa Phật giáo ở Đà Nẵng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]