Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn học dân gian Việt Nam phản ánh tín ngưỡng tổng hợp

28/03/201321:22(Xem: 4372)
Văn học dân gian Việt Nam phản ánh tín ngưỡng tổng hợp

Văn học dân gian Việt Nam phản ánh
tín ngưỡng tổng hợp của người Việt

Lê Anh Dũng

---o0o---

Tam giáo Việt Nam đã có một lịch sử lâu dài, kể từ thế kỷ I, II trở đi, cho nên dễ hiểu vì sao Tam giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc không phải chỉ trong tầng lớp trí thức giỏi chữ Hán mà còn gieo được tư tưởng đạo đức trong quần chúng bình dân không biết chữ Hán. Văn học dân gian (hay văn chương truyền khẩu) qua các loại hình cổ tích, dân ca, ca dao, tục ngữ... là những bằng chứng rõ ràng cho thấy dấu ấn Tam giáo trong văn hóa đạo đức của dân tộc Việt. Các vị tiên, phật luôn luôn có mặt trong các câu chuyện cổ tích khuyến thiện để giáo dục con người tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ.

1. DẤU ẤN CỦA LÃO GIÁO

Vũ trụ luận Lão Trang cho Đạo là nguyên lý tối sơ, là tuyệt đối thể, và Đức là sự thể hiện cái Đạo nơi con người. Triết lý đó có thể hơi quá trừu tượng đối với cách suy nghĩ của quần chúng bình dân. Tuy nhiên, không biết từ bao giờ, hai chữ đạo đứcđã là dụng ngữ quen thuộc trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của mọi người. Theo đó, đạohiểu giản dị là lẽ phải trong cách sống giữa người với người. Thế nên, người Việt bảo nhau hãy biết ăn ở cho phải đạo, rồi từ đó mà có đạo làm người, đạo vợ chồng, đạo thầy trò, đạo làm con…

Đạo làm con chớ hững hờ,

Phải đem hiếu kính mà thờ mẹ cha.

Biết đạo đối với người Việt là biết cư xử đúng đắn trong mọi quan hệ giữa bản thân với gia đình, thân tộc, xóm giềng, xã hội, đất nước. Một chàng trai quê chân lấm tay bùn khi kén bạn đời cũng biết trân trọng giá trị của người biết đạo, nên đã tỏ lời:

Hột thủy tinh,

Đây nhìn sáng rỡ.

Để dành từ thuở,

Làm nhẫn đeo tay.

Dầu ai năn nỉ hỏi nài,

Đợi người biết đạo, của này sẽ trao.

Những kẻ sống trái lẽ phải có thể bị mắng là vô đạo, thất đức. Ngược lại, người tốt, biết đạo thì được khen là ăn ở có đức. Chữ đứccòn là tiếng xưng hô cao quý nhất những cho những vị, những đấng mà nhân dân sùng kính, như: Đức Chí tôn, Đức Mẹ, Đức Chúa, Đức thánh Trần, Đức Bồ tát…

Đức trở nên giá trị tinh thần có huyền lực siêu nhiên để nâng đỡ cuộc sống con người. Gia đình biết đạo không cho rằng của cải thế gian là tài sản bền vững truyền lại cho cháu con; ngược lại, chỉ có đức tuy vô hình (vì là âm đức), nhưng mới thực đáng dành cho mai hậu. Thế nên:

Cây xanh thì lá cũng xanh,

Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

Người trồng cây hạnh người chơi,

Ta trồng cây đức để đời mai sau.

Khi ví đức với cây xanh, lá xanh, rõ ràng người Việt coi đức là một thực hữu, nghĩa là một cái gì cụ thể, có thể nuôi lớn, chăm bón cho xum xuê, để cho đức sẽ nảy nở, đơm hoa kết quả. Nhờ thế, đức ngày một dày, và lâu bền mãi mãi. Hiểu và thực hành chữ đức một cách linh hoạt, tài tình như thế chính là nét độc đáo nổi bật của dân tộc Việt Nam.

2. DẤU ẤN CỦA NHO GIÁO

Về phần đạo Nho, các phạm trù đạo đức như tam cương(quân thần, phụ tử, phu thê) và ngũthường(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) cũng được Việt hoá, trở thành lời ca tiếng hát mộc mạc giữa chốn hương đồng cỏ nội:

Anh làm trai học đạo thánh hiền,

Năm hằng chẳng trễ, ba giềng chớ sai.

Làm trai giữ trọn ba giềng,

Thảo cha, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.

Ngũ luân (quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu) vàngũ thường cũng được gọi cho gọn là luân thường, hay luân thường đạo lý. Trong các mối quan hệ ấy, đạo làm con đối với cha mẹ là lấy chữ hiếulàm đầu, còn phận làm em đối với anh chị hay phận kẻ nhỏ đối với các bậc vai vế lớn phải lấy chữ đễ. Hiếu đễđược giải thích như sau:

Thờ cha mẹ ở hết lòng,

Ấy là chữ hiếu ở trong luân thường.

Chữ đễ có nghĩa là nhường,

Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên.

Ghi lòng, tạc dạ chớ quên,

Con em phải giữ lấy nền con em.

Câu chữ Hán của Thầy Tăng tử «Hiếu giả bách hạnh chi tiên» (Hiếu đứng đầu trong trăm hạnh tốt) khi thoát ra khỏi trang sách Nho sĩ đã được ca dao diễn đạt tài tình:

Làm con nết đủ trăm đường,

Trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay.

Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên,

Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên,

Làm người phải biết tổ tiên ông bà.

Câu chữ Hán «Thần tỉnh mộ khang» (Sớm thăm tối viếng) từ trong trang sách nhà Nho cũng được chuyển qua ca dao và gắn liền với đạo hiếu của con với mẹ:

Mẹ già ở túp lều tranh,

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.

Nếu nói nhờ có đạo Nho mà người Việt mới biết nêu cao đạo hiếu thì rất sai lầm. Là một dân tộc có truyền thống đạo đức tốt đẹp, người Việt tự nhiên cũng biết tôn thờ chữ hiếu, tuy nhiên, với sự du nhập của đạo Nho, những giáo lý tốt đẹp của Nho giáo phù hợp với tình cảm trong sáng của dân Việt đã có môi trường thuận lợi để phát triển, nảy nở, và người Việt bằng ca dao đã dành một nội dung phong phú để nhấn mạnh đến tình cảm thiêng liêng này:

Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Công cha như núi ngất trời,

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.

Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Như vậy, hiếu cũng là phép tu thân. Mệnh đề tu thân tề giađược nói tới ở đầu sách Đại học: «Thân tu nhi hậu gia tề.» Người Việt chuyển hóa ý đó thành ca dao như sau:

Tu thân rồi mới tề gia,

Lòng ngay nói vạy, gian tà mặc ai.

3. DẤU ẤN CỦA PHẬT GIÁO

Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống nhân dân rất sâu đậm, nhất là đức tin về nghiệp báo, luân hồi nhân quả. Triết lý về nghiệp (karma) được diễn tả:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù,

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Cửa sông Thần Phù là chỗ sông Chính Đại đổ ra vịnh Bắc Bộ, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Cuối đời Lê cửa sông bị cát bồi lấp mất và trở thành đất liền. Một địa danh không còn, nhưng câu ca dao còn mãi.

Tư tưởng nhân bản của đạo Phật cũng thấm nhuần tình cảm, đạo đức người Việt. kinh Lăngnghiêmcó câu: «Tương thử tâm thân phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân.» Ngụý nói rằng: Ai dốc lòng phụng sự cõi thế gian (trần sát), tức là đã đền đáp, báo ân Phật.

Ca dao Việt có câu tương tự: xây bảo tháp (phù đồ) thờ Phật, cũng chưa bằng cứu giúp cho con người thế gian trước đã.

Dù xây chín bậc phù đồ,

Không bằng làm phúc cứu cho một người.

Dấu ấn của Tam giáo còn nhiều. Những dẫn chứng nêu trên chỉ mới tạm coi là một vài điển hình, tiêu biểu, có tính cách minh họa. Điều cần lưu ý, đó là bên cạnh ảnh hưởng của Tam giáo, còn có bản sắc tín ngưỡng riêng của người Việt.

4. TAM GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ TRỜI

Ngoài Tam giáo lại còn có đức tin ở Trời và tín ngưỡng thờ Trời của người Việt. Một cô gái quê cắc cớ hỏi bí người bạn trai:

Thấy anh hay chữ,

Em hỏi thử đôi lời.

Thuở tạo thiên lập địa,

Ông Trời tròn ai xây?

Dĩ nhiên hỏi lắt léo như vậy ai mà trả lời được! Tuy không biết Trời có từ bao giờ, Trời từ đâu sinh ra, nhưng ai cũng kính Trời vì hiểu rằng có ta đây vì có Trời. Người Việt nói: Trời cho ai nấy hưởng. Trời kêu ai nấy dạ.

Trong bối cảnh xã hội nông nghiệp, lòng tin Trời gắn liền với sinh hoạt của con người:

Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,

Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.

Nhờ Trời hạ kế sang đông,

Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi.

Lạy Trời mưa thuận gió đều,

Cho đồng lúa tốt cho chìu lòng em.

Người Việt tin Trời là đấng cầm cân nảy mực công bằng, nên bảo nhau:

Ở hiền thì gặp lành,

Những người nhân đức Trời dành phúc cho.

Tin Trời, tin vào vận mệnh trường cửu của đất nước non sông, cho nên dù gặp lúc chiến tranh phân cắt, người Việt vẫn vững lòng chặt dạ một đức tin mãnh liệt rằng:

Nước non là nước non Trời,

Ai chia được nước, ai dời được non.

Đạo làm con cũng lồng vào đức tin kính Trời qua cái bàn Thiên ngoài sân, người con hiếu thảo từng đêm đến đó khấn nguyện:

Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời,

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Tín ngưỡng thờ Trời không có một cách bức nào đối với tín ngưỡng Tam giáo. Cho nên nếu có bước vô chùa mà lòng tưởng Phật lẫn Trời cũng không có gì lạ:

Vô chùa thắp một nén nhang,

Miệng nam mô A-di-đà phật,

Nguyện cùng Trời chùa chật cũng tu.

Trời và Phật trong quan niệm người Việt không có ranh giới phân biệt. Khi hoạn nạn, Phật và Trời đều là nơi con người hướng vọng cầu xin sự tế độ từ bi:

Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời,

Đang cơn hoạn nạn độ người trầm luân.

Nói về biểu hiện của tinh thần bao dung tôn giáo (religious tolerance) của người bình dân Việt Nam thì không những chỉ tìm thấy ở ca dao hay tục ngữ, mà còn tìm thấy cả trong cách thờ phượng. Chùa ở Việt Nam không hẳn chỉ là nơi thờ Phật. Có chùa thờ cả Quan thánh Đế quân. Ngoài Bắc, ở làng Kim Bảng (Vụ Bản, Nam Định) có chùa Tam giáo, tức là thờ cả Tam giáo Tổ sư (Thích-ca, Khổng tử, Lão tử). Trong Nam, đường Cao Thắng, quận 3, Sài Gòn, có chùa Tam tông miếu (Minh Lý Thánh hội). Trong quyển Tam giáo kinhlưu hành ở Việt Nam một nghệ nhân nào đó đã khắc gỗ thành một bức tranh tài tình minh họa một tòa sen lớn, cùng ngồi chung trên đó là Đức Phật Thích-ca (ở giữa), Đức Lão tử (bên trái), Đức Khổng tử (bên phải). Ba vị bằng nhau, ba vầng hào quang như nhau. Bên dưới là một bình hương nghi ngút. Khổng, Lão mà ngồi tòa sen, người Việt Nam nghĩ ra được hình tượng ấy mới là độc đáo.

5. TAM GIÁO TRONG TRUYỆN PHẬT BÀ CHÙA HƯƠNG

Trong kho tàng văn chương bình dân Việt Nam có một truyện thơ thường được gọi là: Phật Bà Quan Âm diễn ca, Nam Hải Quan Thế Âm sự tích diễn ca, hay làTruyện Phật Bà chùa Hương… Theo bản in của nhà in Phúc Chi (Hà Nội, 1950), truyện dài 1.424 câu lục bát.

Truyện này thể hiện một tín ngưỡng tổng hợp của người Việt, ở đây đức tin Trời, đạo Phật, Nho, Lão không hề phân chia ranh giới, mà hòa điệu với tín ngưỡng của giới bình dân. Cho nên các hình ảnh, các nhân vật của Tam giáo đều đầy đủ. Nào là triều đình, thủy phủ, Thiên cung, Phong đô địa ngục, có cả cung Diêu Trì với Hội yến Bàn đào. Nào là Ngọc Hoàng Thượng đế, Phật tổ Như lai, Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài Đồng tử, Long nữ, Thái Bạch Kim tinh, Long vương, Diêm vương, Thiên tướng, Thổ địa, Sơn thần, Công đồng Tam phủ, Nam tào, thần Ngũ lôi, thần Du địch, thần Ôn hoàng, thần Lục đinh…

Về mặt tư tưởng, truyện đã giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, bao gồm việc tự độ là giải thoát thành Phật (tức phần cá nhân), và việcđộ tha (khía cạnh xã hội) là chữ hiếuvới gia đình, chữ trungvới nước và chữ nhânvới chúng sanh. Ngay từ khi vào truyện tác giả khuyết danh đã nhấn mạnh:

Chân như đạo Phật rất mâu,

Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân. (câu 1-2)

Tác giả định nghĩa:

Hiếu là độ được đấng thân,

Nhân là độ được trầm luân mọi loài. (câu 3-4)

Trên thì hiếu báo sinh thành,

Dưới thì nhân cứu chúng sanh ta bà.(câu 1397-1398)

Tác giả đã gắn liền Đạo pháp với dân tộc:

Thân này thành Phật may ra,

Hộ nước hộ nhà thì mới có phương. (câu 315-316)

Tư tưởng tích cực đó rất gần gũi với dân tộc Việt Nam, và đã có những tấm gương sáng trong lịch sử, trải qua các đời Đinh, Lê, Lý, Trần…

Lòng tin Trời và luật nhân quả báo ứng được thể hiện qua lời Hoàng hậu tâu cùng Vua: «Trong cơ báo ứng đạo Trời ở trong». (câu 24). Tin Phật mà cũng kính Trời, thế nên nhà vua đã thốt: «Trẫm nay ơn Bụt(Phật), ơn Trời…» (câu 1335). Và cũng với đức tin vô phân biệt ấy cho nên lúc công chúa phát đại nguyện xuất gia tu Phật thì lại khấn Trời:

Nói thôi ngửa mặt khấn Trời,

Chứng minh xin chớ để sai lòng này. (câu 345-346)

Nhân vật chính trong truyện là Chúa Ba, tu Phật, đắc quả, được gọi là Bồ tát, là Phật Bà,mà cũng rất nhiều lần được gọi là Tiên nga(các câu 937, 946, 949, 1049, 1054…) Điều này không nên đánh giá cạn cợt là tác giả thiếu nhất trí. Trái lại, cần thấy sự kiện đó phản ảnh tâm lý bình đẳng tín ngưỡng có từ lâu đời, và đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt.[1]

6. TAM GIÁO TRONG TRUYỆN LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (BẠCH VIÊN TÔN CÁC)

Một tác phẩm khuyết danh tác giả nữa là Lâm tuyền kỳ ngộ(sự gặp gỡ lạ lùng giữa chốn suối rừng) với hai nhân vật chánh là Bạch viên (con vượn cái lông trắng) và chàng Nho sĩ Tôn Các.

Bạch viên tiền kiếp là tiên nga, bị đày xuống trần gian làm thân vượn cái lông trắng. Bạch viên tự thuật:

Tiện thiếp từ tu ở cõi tiên,

Chưa hề bén lụy cõi trần duyên.

(Viên thị tự tâm sự)

Vốn thiếp xưa thân cửa Đế Thiên,

Vì duyên cho phải lụy trần duyên.

(Viên thị biệt Tôn sinh)

Tiện thiếp thân xưa khách Quảng Hàn,

Thác sinh đày xuống cõi trần gian.

(Viên thị kiến Huyền Trang)

Do căn tiên nên Bạch viên biết giác ngộ tu hành, tìm đến chùa Phi Lai học đạo Phật với Thiền sư Huyền Trang.

Đêm thanh náu gót ngoài tăng viện,

Ngày vắng dâng hương trước Phật đài.

(Bạch viên nhập tự thính kinh)

Theo đường Phật giáo mong cầu phúc,

Đội đức Thiền sư cứu khỏi nàn.

(Viên thị kiến Huyền Trang)

Do phép lực của Phật, Bạch viên lại cởi bỏ lốt vượn, hóa thành thiếu nữ xinh đẹp. Thế rồi Bạch viên kết duyên cùng chàng Nho sinh Tôn Các, sinh được hai con trai. Nhưng Bạch viên phải tuân lệnh Thiên đình, mãn số ở trần gian, từ giã chồng con về cõi tiên.

Trăm lạy giã chàng còn ở thế,

Năm mây xin thiếp lại lên tiên.

(Viên thị biệt Tôn sinh)

Tôn Các ở lại trần gian, đi thi được chấm đậu, vua ban áo mão vinh quy. Tôn Các vốn cũng là tiên thượng giới, nguyên là sao Tử Vi.

Tôn Các nay tuy người hạ giới,

Tử Vi xưa cũng khách Thiên tào.

(Thượng đế chiếu hứa Bạch viên tái hợp)

Ngọc Hoàng Thượng đế thương tình hai người ly biệt nên lại theo lời xin của Bạch viên cho phép Bạch viên xuống trần lần nữa tái hợp cùng Tôn Các để trọn đạo phu thê.

Lại ban sum họp duyên hương lửa,

Cho đấng anh Nho sánh má đào.

(Thượng đế chiếu hứa Bạch viên tái hợp)

Và sau rốt Bạch viên, Tôn Các khi số trần đã mãn, lại cùng nhau trở về Thượng giới.

Duyên nợ oan tình đền kiếp trước,

Về sau hương lửa rạng rừng thiền.

Cũng giống như truyện Phật Bà chùa Hương, truyện Lâm tuyền kỳ ngộmang đầy đủ dấu ấn của Nho, Thích, Lão. Với Nho, đó là đạo phu thê, đạo cha con, đạo quân thần, phải nhập thế giúp đời. Với Thích, là giáo lý giải thoát khỏi nghiệp chướng thế gian (Bạch viên cởi lốt). Với Lão là vai trò cầm luật Thiên tào của Thượng đế, là kiếp trích tiên ở chốn thế gian của Bạch viên, Tôn Các… [2]

Tóm lại, kho tàng văn học dân gian Việt Nam, từ ca dao, tục ngữ, đến truyện thơ, đã có những bằng chứng cho thấy nét văn hóa đạo đức truyền thống của người Việt, đó là lòng bình đẳng trước mọi tôn giáo, và khả năng tiếp thu, chuyển hóa Tam giáo cho hòa hợp với văn hóa bản địa, tạo thành một tín ngưỡng tổng hợp trên đất nước Việt Nam. Tín ngưỡng tổng hợp đó gồm Nho, Thích, Lão, và tín ngưỡng thờ Trời vậy.

NGUỒN:
Chương V
, CON ĐƯỜNG TAM GIÁO VIỆT NAM TỪ KHỞI NGUYÊN ĐẾN THẾ KỶ XIX,Nxb Tp HCM, 1994, tr. 73-88.
Mã số của sách này trong
Library of Congress Online:
LC Control Number: 94945152
.

CHÚ THÍCH

[1]Về truyện Phật Bà chùa Hương, ngoài bản in Phúc Chi (Hà Nội, 1950), còn có thể xem Truyện Bà chúa Ba (Nam Hải Quan Thế Âm), Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội, 1991).

[2]Về truyện Lâm tuyền kỳ ngộcó thể tìm bản rô-nê-ô năm 1960 của Phòng Nghiên cứu Văn học sử và Văn chương Việt Nam thuộc Đại học Sư phạm Huế. Hoặc đọc trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 6, của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Tp.HCM, 1992, tr. 257-272.


---o0o---
Source: http://www.freewebs.com/nhantu/lad/vhdangian.htm
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2018(Xem: 8452)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
21/03/2018(Xem: 15132)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 5767)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5263)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 14566)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 39840)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8002)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 22129)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4910)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4089)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567