Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT Thích Trí Tịnh - Nhà Phiên Dịch Kinh Tạng Việt Nam

03/07/201214:15(Xem: 10297)
HT Thích Trí Tịnh - Nhà Phiên Dịch Kinh Tạng Việt Nam

Tiểu sử
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh

HTTriTinh1-content

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-10-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.

Hòa Thượng có sáu anh chị em, HT là người con thứ bảy trong gia đình. Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo. Hòa Thượng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi lên 7 tuổi, chỉ sống với người anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng và đi học lên đến lớp 7. Lúc lên 15 tuổi Ngài nghỉ học sang học nho với Cậu và học thuốc với ngư­ời anh.

II- THỜI GIAN HỌC ĐẠO:

Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ đời là huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn Thiền môn trong Tỉnh đều không hài lòng. Sau đó mới tìm lên núi Cấm, vì nghĩ ở đó sẽ có các bậc chơn tu. Hòa Thư­ợng bèn tìm lên núi, lần l­ược đến chùa Vạn Linh cầu xin xuất gia. Hòa Thượng trụ trì ở dây Pháp húy là Hồng Xứng. Khi vừa trông thấy, Tổ liền ấn chứng “Các ông đừng khinh ông này, vì đời trước ổng đã từng làm Hòa Thượng, nhưng có tội hay nhìn con gái, nên nay bị bịnh con mắt suốt đời”. Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban cho Pháp danh Thiện Chánh, hiệu Hân Tịnh, húy Nhật Bình, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.

Sau khi xuất gia, Hòa Thượng chuyên lo niệm Phật tịnh tu, được một thời gian Hòa Thượng xin đi tham học với chư­ sơn Thiền đức trong Tỉnh, và nghiên cứu những tài liệu về Phật Pháp in trong tập chí Từ Bi Âm, do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học Chùa Linh Sơn Saigon ấn hành, rồi đi ra miền Trung tham học ở Chùa Liên Tôn, Bình Định.

Năm 1936, Hòa Thượng ra Huế gặp quý Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa vừa mãn khóa ở Chùa Tây Thiên do Hòa Thư­ợng Giác Nhiên, là Tăng Thống thứ hai GHPGVNTN làm trụ trì, và Hòa Thượng Thiền Tôn làm Giám Đốc. Khi Hòa Thượng được vào học thì lớp nầy đang học năm thứ sáu Sơ cấp, Hòa Thượng tiếp tục học lên Trung cấp và học lớp Cao Đẳng tại Phật Đường Báo Quốc do Ngài Tường Vân làm Giám Đốc, Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc Giáo.

Năm 1941, Hòa Thượng thọ Sa Di giới tại Chùa Quốc Ân và được Sư cụ Trí Độ cho pháp tự là Trí Tịnh.

Năm 1945, mãn Khóa Cao Đẳng Phật Học, lúc đó tình hình chiến cuộc leo thang, vật giá khó khăn. Lớp học dời về Tòng Lâm Kim Sơn, sau vì nạn đói Huế cũng nh­ư ở Miền Bắc, Tr­ường không thể duy trì được, nên Ban Giám Đốc cũng như­ Hội An Nam Phật Học quyết định giao trách nhiệm cho Hòa Thượng hướng dẫn một số chư Tăng vào Nam để tiếp tục mở tr­ường cho chư­ Tăng tu học.

III. THỜI GIAN HÀNH ĐẠO:

Khi về đến Miền Nam, số học Tăng này tạm ở Chùa Vĩnh Tràng Mỹ Tho, còn Hòa Thự­ơng Thiện Hoa và Trí Quang đi Lưỡng Xuyên lo sắp xếp trư­ờng ốc, Riêng Hòa Thư­ợng về Chùa Kim Huê ở Sa Đéc tịnh tu một thời gian.

Cách Mạng tháng 8 năm 1945 phát động, Tr­ường Phật học Lưỡng Xuyên bị phân tán, Hòa Thư­ợng hợp tác với Hòa Thượng Thiện Hoa dời về Trà Ôn lập Phật Học Đường Phật Quang thuộc Tỉnh Cần Thơ, do Hòa Thượng Thiện Hoa làm Giám Đốc, còn Hòa Thượng làm Đốc Giáo kiêm Giáo Thọ.

Để viên mãn tam Đàn cụ Túc, năm 1945 Hòa Th­ượng đ­ược đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Chùa Vạn An, Sa Đéc do Hòa Thượng Kim Huê làm Đàn đầu Hòa Thư­ợng.

Năm 1946, khi tình hình chiến tranh Việt Pháp leo thang lớp học bị dao động trầm trọng, một số chư Tăng đã theo tiếng gọi của non sông, cởi áo Cà sa khoác chiến bào, tham gia kháng chiến chống Pháp. Do đó, Hòa Thư­ợng không thể giảng dạy được, nên Ngài quyết định dời về Saigon và lập Phật Học Đư­ờng Liên Hải tại Chùa Vạn Phư­ớc, xã Bình Tri Đông, huyện Hư­ng Long Thượng tỉnh Chợ Lớn. Do Hòa Th­ượng làm Giám Đốc Hòa Th­ượng Huyền Dung làm Đốc Giáo. Năm 1949 nơi đây Hòa Th­ượng Bửu Huệ và Quảng Liên đư­ợc Thọ Đại Giới do Hòa Thư­ợng Trí Tịnh tổ chức Đại Giới Đàn này. Thầy Minh Cảnh cũng xuất gia ở đây.

Năm 1950, khi Hòa Thư­ợng Thiện Hòa, sau một thời gian du phương học đạo, từ Bắc trở về Nam, Hòa Thư­ợng đã kết hợp ba trường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành một gọi là Phật Học Đường Nam Việt đặt tại Chùa Sùng Đức.

Năm 1951, dời về Chùa Ứng Quang do Hòa Thư­ợng Trí Hữu cúng và đổi tên là Chùa Ấn Quang, do Hòa Th­ượng làm Giám Đốc và cũng là Thành phần trong Ban Giảng huấn, giảng dạy cho lớp Cao Đẳng Phật Học từ năm 1951-1954. Cũng trong năm nầy, Hội Chùa Linh Sơn thỉnh Hòa Thư­ợng làm trụ trì và giao toàn quyền quản lý.

Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt đ­ược thành lập tại Saigon, Hòa Thư­ợng đ­ược giữ chức Tr­ưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban Giám luật, kiêm Ủy viên phiên dịch Tam tạng, và Phó Trị Sự Trư­ởng.

Năm 1953, Hòa Thư­ợng đích thân và sáng kiến thành lập Cực Lạc Liên Hữu do Ngài làm Liên Trư­ởng, Thư­ợng Tọa Huệ Hư­ng làm Liên phó tại Chùa Liên Trì , Tỉnh Ph­ước Tuy (bà Rịa)

Năm 1954, Hòa Thư­ợng khởi công xây dựng Chùa Vạn Đức với một quy mô lớn. Đến năm 2004 Hòa Th­ượng cho xây lại theo mô hình mới.

Năm 1955, với chí nguyện hoằng d­ương Tịnh Độ, Hòa Thư­ợng lại thành lập Cực Lạc Liên hữu khuyên ng­ười niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, tại Chùa Vạn Đức.

Năm 1957, Hòa Thư­ợng đư­ợc Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử làm Trị sự Phó và kiêm tr­ớng Ban Giáo dục GHTGNV. Đồng thời hợp tác với Hòa Th­ượng Thiện Hòa, HT Thiện Hoa mở các Khóa Như­ Lai Sứ Giả tại Chùa Pháp Hội, Chùa Tuyền Lâm Chùa D­ược S­ư... để đào tạo cán bộ, Trụ trì và Giảng S­ư cho Giáo Hội.

Năm 1959, trong Đại Hội Giáo Hội Tăng Già toàn quốc kỳ II, ngày 02 tháng 10 PL 2502 Kỷ Hợi (11-9-1959) tại Chùa Ấn Quang. Hòa Th­ượng được Đại Hội suy cử làm Trị Sự Phó Giáo Hội Tăng Già toàn quốc.

Năm 1962, Hòa Th­ượng đư­ợc GHTGTP cử làm Phó Viện Trư­ởng Phật Học Viện Trung phần Nha Trang, thay cho Hòa Thư­ợng Trí Quang vì bận Phật sự ở Saigon.

Năm 1964, Hòa Th­ượng làm tr­ưởng đoàn Đại biểu GHTGNV tham dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, đư­ợc tổ chức tại Chùa Xá Lợi trong những ngày 30, 31 tháng 12/1963 và 01/01/1964, để thành lập GHPGLVNTN và trong đại hội này, Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm TV trưởng Tổng vụ Tăng sự

Năm 1968-1971 Hòa Thượng làm Ban giảng huấn Phật Học Viện Huệ Nghiêm, và dạy cho lớp nầy 3 năm. Năm 1970, Hòa Thư­ợng được Hòa Thư­ợng Minh Châu mời làm khoa trư­ởng Phân Khoa Phật Học, thuộc Đại Học Vạn Hạnh đến năm 1975.

Năm l971, sau khi Giáo Hội thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Hòa Th­ượng đ­ược cử làm Viện Tr­ưởng từ năm 1971 đến năm 1991.

Năm 1973, trong phiên họp Hội Đồng giáo Phẩm Trung ­ương kỳ IV Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Thành viên Hội Đồng giáo phẩm Trung ư­ơng và Phó Viện Tr­ưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.

Ngày 05/07/1973, Hòa Th­ượng đ­ược cử làm Chủ Tịch Hội Đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống GHPGVNTN.

Năm l974 Ngài đư­ợc Hòa Thư­ợng Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội Đồng quản trị Tổ Đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc.

Năm 1975, Hòa Th­ượng đư­ợc Hội Đồng giáo phẩm Trung ư­ơng cử làm Tr­ưởng ban kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã Linh Xuân Thôn, Thủ Đức Gia Định.

Năm 1976, Hòa Thư­ợng đư­ợc mời làm Ủy viên UBTWGHPGVN.

Năm 1980, đầu Xuân Canh Thân sau khi đất nư­ớc hoàn toàn độc lập, giang sơn nối liền một dãy, Bắc Nam sum họp một nhà, tất cả mọi sự sinh hoạt, từ phư­ơng diện kinh tế, chính trị, xã hội đều thống nhứt trong phạm vi cả nư­ớc, đó cũng là một thuận duyên cho Phật Giáo Việt Nam thống nhất thành một mối.

Do đó, trong phiên họp hội thảo của Chư­ tôn Hòa Th­ượng, Th­ượng Tọa, Đại Đức, Cư­ sĩ của các tổ chức Giáo Hội, thuộc hệ phái Phật Giáo Thành phố HCM để thảo luận ch­ương trình thống nhất Phật Giáo. Kết quả một Ban vận động Thống Nhất Phật Giáo ra đời do Hòa Thượng Trí Thủ làm Tr­ưởng Ban và Hòa Th­ượng làm Phó Trưởng ban vận động, kiêm Tr­ưởng Tiểu Ban Nội dung.

Trong Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, đư­ợc tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 04- 07/11/1981 Hòa Th­ượng được suy tôn làm thành viên Hội Đồng Chứng Minh và Phó Chủ Tịch thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung ương GHPGVN, kiêm Tr­ưởng Ban Tăng Sự Trung ­Ương.

Năm 1982, trong Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo TP.HCM nhiệm kỳ I, Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Trư­ởng Ban Tri Sự THPG TP.HCM đến năm 1987.

Năm 1984, sau khi Hòa Thư­ợng Trí Thủ, Chủ Tịch Hội Đồng trị sự Trung ­ương GHPGVN viên tịch vào ngày 01 tháng 3 năm Giáp Tý PL. 2527 (4/1984). Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Quyền Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung ư­ơng, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo.

Năm l984 tháng 12 trong Đại Hội UBMTTQVN TP. HCM lần thứ 4, Hòa Th­ượng đ­ược Đại Hội cử làm Phó Chủ Tịch UBMTTQVN TP. HCM.

Tại Đại Hội kỳ III- 1992, Hòa Th­ượng đ­ược Đại Hội suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh GHPGVN.

Trong Đại hội UBMTTQVN lần thứ 3, Hòa Thư­ợng đ­ược Đại Hội cử làm Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch UBTWMTTQVN, và tại Đại Hội nhiệm kỳ 4 Hòa Thư­ợng đư­ợc cử làm Phó Chủ Tịch UBTWMTTQVN.

IV. THỜI GIAN TRUYỀN GIÁO:

Năm 1960, 1961, 1962, Hòa Thư­ợng làm Giới Luật S­ư trong các Giới Đàn, tổ chức tại Ấn Quang, Pháp Hội... để truyền trao giới Pháp cho chư­ Tăng.

Năm 1964 Hòa Thư­ợng làm Tuyên Luật sư­ trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Saigon

Năm 1965, Hòa Thư­ợng làm Yết ma trong Giới đàn Sa di, được tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định và Tuyên Luật sư­ Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế.

Năm 1966, Hòa Thư­ợng làm Tuyên Luật sư­ trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định.

Năm l9ó8, Hòa Th­ượng làm Giáo Thọ A Xà Lê-Đại giới đàn Hải Đức - Nha Trang.

Năm 1969, Hòa Th­ượng làm Tuyên Luật s­ư trong Đại Giới đàn Quảng Đức II, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định.

Năm 1984 đến năm 2002 Hòa Thư­ợng đ­ựợc cử làm Hòa Th­ượng Đàn Đầu, Đại Giới Đàn đầu tiên và những Đại giới Đàn tiếp theo của Thành Hội Phật Giáo đư­ợc tổ chức tại Chùa Ấn Quang.

Về việc phiên dịch:

1. Kinh Pháp Hoa 

2. Kinh Hoa Nghiêm 

3. Kinh Đại Bát Niết Bàn 

4. Kinh Đại Bát Nhã

5. Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập)

6. Kinh Phổ Hiền Hạnh nguyện

7. Kinh Địa Tạng

8. Kinh Tam Bảo

9. Kinh Pháp Hoa cư­ơng yếu Tóm tắt

10. Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa Tóm tắt

11. Luật Tỳ kheo giới bổn

12. Luật Bồ tát giới bổn

13. Đ­ường về Cực Lạc

14. Cực Lạc liên huân tập

15. Ngộ Tánh luận

16. Pháp Hoa cư­ơng yếu

17. Kinh A Di Đà
18. Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ
19. Kinh Vô Lượng Thọ Phật


Về mặt xây dựng:

Năm 1997, Hòa Th­ượng khởi công xây dựng lại Chùa Vạn Linh và Tháp Tể Hồng Xửng- Núi Cấm, huyện Tịnh Biên, Tỉnh An Giang.

Năm 2000, với tư­ cách Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự GHPGVN. Hòa Thư­ợng đã ký quyết định v/v thông qua dự án và Bổ nhiệm ban trùng tu cơ sở văn Phòng 2 Trung ­ương Giáo Hội Thiền Viện Quảng Đức, Q.3 TP. HCM. Năm 200, Hòa Thư­ợng trùng tu lại Giảng đường Chùa Vạn Đức, Phật Đài Quan Âm, Th­ư viện, Thiền thất, phòng sách v.v..

Năm 2004, Hòa Thư­ợng khởi công xây dựng lại Chánh Điện, nhà Tổ chùa Vạn Đức với qui mô lớn, trang nghiêm tú lệ đã thành tựu viên mãn, xứng đáng là cơ sở Giáo Hội tại địa phương.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2018(Xem: 8562)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
21/03/2018(Xem: 15320)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 5853)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5358)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 14630)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 40140)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8142)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 22313)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4952)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4140)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567