Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiên Thai giáo quán tông

03/10/201000:23(Xem: 9062)
Thiên Thai giáo quán tông
BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Thiên Thai
 giáo quán tông

Thiên Thai một tông chuyên xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm luận ghi rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả xa bái Long Thọ làm sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ thứ hai; Huệ Văn truyền xuống Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư truyền cho Trí NghiễmĐức An (Trí Giả), Trí Giả là tổ thứ tư.

Lấy nhất niệm hoằng truyền 3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở quan quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai ở Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai

Trí Giả truyền xuống Chương An Quán Đảnh Phi Phàm là tổ thứ năm, Phi Phàmtruyền cho Pháp Hoa Trí Uy là tổ thứ sáu, Trí Uy truyền cho Thiên Cung Huệ Oai là tổ thứ bảy, Huệ Oai truyền cho Tả Khê Huyền Lãng Huệ Minh là tổ thứ tám. Huyền Lãng truyền xuống Kinh Khê Trạm Nhiên là tổ thứ chín, Trạm Nhiên truyền xuống Quốc Thanh Đạo Toại Hưng Đạo là tổ thứ mười, Hưng Đạo truyền cho Quốc Thanh Quảng Tu Chí Hành là tổ mười một. Chí Hành truyền cho Vật Ngoại Chánh Định là tổ mười hai. Chánh Định truyền cho Nguyên Tú Diệu Thuyết là tổ mười ba, Diệu Thuyết truyền cho Thanh Tủng Cao Luận là tổ mười bốn. Cao Luận truyền cho Loa Khê Nghĩa Tịch Thường Chiếu là tổ mười lăm, Thường Chiếu truyền cho Minh Châu Bảo Vân - Nghĩa Thông Tánh Viễn là tổ mười sáu. Tánh Viễn truyền cho Tứ Minh Tri lễ Ước Ngôn Pháp Trí là Tổ mười bảy. Pháp Trí truyền cho Nam Bình Phạm Trăn là Tổ mười tám. Phạm Trăn truyền cho Tùng Giản Từ Biện là Tổ mười chín. Từ Biện truyền cho Xa Khê Trạch Khanh là Tổ 20, Trạch Khanh truyền cho Trúc Am Nghi Ông Khả Quán là Tổ 21. Khả Quán truyền cho Bắc Phong Nguyên Thật Tông Aán là Tổ 22, Tông Aán truyền cho Phật Quang Pháp Chiếu là Tổ 23. Pháp Chiếu truyền cho Tử Đình Sư Huấn là Tổ 24, Huấn truyền cho Đông Minh Huệ Nhựt là Tổ 25. Huệ Nhựt truyền cho Phổ Trí Vô Ngại là Tổ 26, Vô Ngại truyền cho Nam Thiên Trúc Lâm Huệ là tổ 27. Lâm Huệ truyền cho Đông Thiền Nguyệt Đình Đức là Tổ 28, Đức truyền cho Tôn giả Diệu Phong Chân Giác Bách Tùng là Tổ 29. Đó là thời trung hưng của Giáo Quán Tông.

Kệ truyền pháp của Thiên Thai Giáo Quán như sau:

Chân truyền chánh thọ

Linh nhạc tâm tông

Nhứt thừa đốn quán

 Ấn định cổ kim

Niệm khởi tịch nhiên

Tu tánh lãng chiếu

Như thị trí đức

Thể bổn huyền diệu

Nhân duyên sanh pháp

Lý sự tức không 

Đẳng danh vi hữu

Trung đạo viên dung

Thanh tịnh phổ biến

Cảm thông ứng thường

Quả huệ đại dụng

Thật tướng vĩnh phương.

Dịch nghĩa:

Chân truyền chánh pháp

Linh nhạc ấn tâm

Nhứt thừa giáo quán

Xưa nay hướng chân

Khởi niệm lắng trong

Tự tánh sáng soi

Trí đức làu thông

Thể tánh thậm thâm

Nhân duyên sanh pháp

Sự lý đều không 

Sẵn danh là hữu (có)

Trung đạo viên dung

Thanh tịnh vô cùng

Mọi nơi cảm thông

Trí huệ diệu dụng

Thật tướng hằng luôn…

Lại lập kệ tiêu biểu thực hành như:

Phật pháp rộng truyền

Tổ đạo sâu hoằng

Thành lập tôn chỉ

Năng sở tịnh nhiên 

Công hành thật hiển

Thông tỏ hẳn yên

Vạn pháp biến hiện

Hai, ba tinh chuyên

Ngộ nhập pháp môn

Giáo hóa đồng hành

Ta, người lợi lành

Rốt ráo sáng thanh

Khai thông nguồn mạch

Chỉnh đốn cương lãnh

Đời đời giữ thường

Luôn làm thuyền nương…

Từ đây trở xuống các phái khá phức tạp, nay chỉ lục ghi một chi của Linh Phong. Ngài Bách Tùng truyền Thiên Thai cho U KhêVô Tận Truyền Đăng là tổ thứ 30, Đăng truyền xuống Hiểu Phong Linh Phong Ngẫu Ích Trí Cưu Tố Hoa là Tổ 31. Phái Linh Phong giáo quán biệt xuất kệ như sau:

Trí sáng chân như hiện

Bản tánh khởi thật tu

Gốc chính phân ngăn dứt

Nguồn chân biển giác lưu

Giữ tín bồi nhân tốt

Nguyện rộng đạo càng sâu

Luật lệ bàn qui tắc

Đạo pháp vững ngàn thu…

Trí Cưu truyền Thương Huy Tịnh Thạnh, Tịnh Thạnh truyền cho Cảnh Tu Chân Minh, Chân Minh truyền cho Lý Nguyên Như Hồng. Như Hồng truyền cho Tố Liên Hành Châu, Hành Châu truyền cho Huệ Giác Toàn Thành. Toàn Thành truyền cho Hoằng Hải Tánh Phô. Từ Long Thọ trở đi đây là đời Tổ 37.

Đây lược tựa Thai giáo Chánh Tông Nguyên Ủy, những phái khác khá phức tạp không tiện đăng tải rõ từng phái một được.

Chứng nghĩa ghi rằng, Thai Tông Nguyên Lưu một cuốn và Chỉ Nguyên Tập, các Tổ đều có tiểu truyện. Chỉ có Tổ thứ 28 trong sách Nguyên Lưu là Thiền truyện Minh Ông, trong sách Chỉ nguyên là Nguyệt Đình Đức Công. Căn cứ theo Đông Thiền Minh Ông mất vào năm Vạn Lịch nguyên niên. Bách Tùng sanh năm Đinh Dậu đời Gia Tĩnh, năm 22 tuổi tới chùa Đông Thiền nghe kinh Pháp Hoa. Tuy cùng một thời nhưng Đông Thiền là chủ giảng còn Nguyệt Đình là pháp sư (người giảng pháp) không phải là Minh Ông. Nên sách Chỉ Nguyên tập cho rằng Bách Tùng xuất phát từ cửa của Nguyệt Đình Đức Công. Chỉ có sách Nguyên Lưu nêu trực tiếp Minh Ông là đời thứ 29; cần phải quyết nghi đã. Khảo cứu lại chùa Lâu Trạch ở Gia Hưng có xuất bản một cuốn sách Thế phổ Thiên Thai tông đi thẳng cho Diệu Phong Bách Tùng là Tổ thứ 18. Ở trên trực tiếp Tứ Minh lấy nối hưng thạnh Tông Thiên Thai làm giao tiếp vậy. Nhiều đời nhìn chung rất xa cháu con không được ghi chép, cho chí mạch nguồn không theo khảo sát kỹ. Việc này không riêng Thai Tông như vậy. Ngày nay pháp mạch Đài Tông đều truyền bá thạnh hành các nơi. Có những cuốn như Chỉ Nguyên tập, Thế Hệ Nguyên lưu… cần nên tham khảo, vì để tiếp nối dòng pháp. Nên phải tùy lúc, tùy nơi lưu tâm ghi lại để duy trì về lâu về dài. Thậm chí kệ truyền pháp của Bách Tùng xử dụng để định danhtiêu biểu hạnh dùng để lập hiệu. Vì thế pháp mạch chân truyền tức tiêu biểu hạnh của giáo pháp. Pháp tiêu biểu cả hai không trước và cũng không sau vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2011(Xem: 11581)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
13/07/2011(Xem: 3533)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28315)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8423)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3546)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4274)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7287)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4881)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14163)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5892)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567