Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung tâm Văn hóa Phật giáo ở Huế

10/01/201513:21(Xem: 4735)
Trung tâm Văn hóa Phật giáo ở Huế

lieu-quan-hueTrung tâm Văn hóa Phật giáo ở Huế, còn gọi là Trung tâm Liễu Quán, nằm bên hữu ngạn sông Hương
, được 
thành lập từ mấy chục năm nay. Sau năm 1975, Nhà nước quản lý mãi cho đến gần hai mươi năm sau mới giao quyền lại cho Tỉnh hội Phật giáo Huế, bấy giờ chỉ là một ngôi nhà… không thể coi là một trụ sở văn hóa Phật giáo được. 
 
Tỉnh hội Phật giáo Huế đã cho vẽ một sơ đồ thiết kế để trùng tu, không lấy gì làm đồ sộ, nhưng đúng nghĩa là một trung tâm văn hóa. Kinh phí ước tính tuy không phải là cao, chỉ bằng một căn hộ trung bình ở thành phố, nhưng đối với Tỉnh hội Phật giáo Huế thì lại là một vấn đề khá khó khăn.

Suốt mấy năm trời, các thầy đi vận động khắp nơi, nhưng chẳng có một hưởng ứng nào đáp lại để có thể xây dựng lại cơ sở đó. Mãi cho đến khi duyên trời đưa đẩy, một vị Phật tử ở Sài Gòn nhưng lại quan tâm về mọi Phật sự, đặc biệt là Phật sự liên quan đến Huế, trong một dịp ra cố đô, biết được nhu cầu xây dựng một trung tâm văn hóa Phật giáo cho xứ Huế, đã tận tình ủng hộ toàn bộ kinh phí; nhờ đó Tỉnh hội Phật giáo Huế đã có được Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán như bây giờ. 
 
Đúng là cái duyên của Huế nói chung và của Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán nói riêng. Có thể thấy những người quan tâm đến vấn đề văn hóa Phật giáo cũng không phải là ít, nhưng họ đều là những nhà trí thức thuần túy, không có đầu óc kinh doanh, cho nên lực bất tòng tâm. Nếu không gặp được vị Phật tử hằng tâm hằng sản như nói trên thì chẳng biết đến bao giờ Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán mới có thể đi vào hoạt động.

Song song với chuyện xây dựng Trung tâm Liễu Quán, cách Huế khoảng 30 cây số về phía Nam, một cơ sở Phật giáo khác cũng được xây dựng. Đó là Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Kiến trúc này được thiết kế giữa một vùng núi non hùng vĩ, kinh phí rất lớn. Có điều những người đứng ra quán xuyến việc xây dựng chẳng có ai phải lo lắng về vấn đề tài chánh cả, vì đó là thiền viện của Hòa thượng Thích Thanh Từ, một vị thiền sư nổi tiếng. 
 
Phật tử đổ tiền vào cúng dường một cách rộng rãi dễ dàng, vì đệ tử của Hòa thượng từ Bắc chí Nam đông đảo không làm sao đếm hết, và vì đó là một thiền viện. Thiền viện tuy không phải là chùa, nhưng Phật tử cũng có thể đến đấy lễ bái, tu tập, hành thiền… như ở một ngôi chùa vậy. Không chỉ một thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã đang được xây dựng, mà vị thiền sư này còn thành lập rất nhiều thiền viện khác từ Bắc chí Nam và luôn luôn nhận được sự cúng dường sung mãn của Phật tử. 
 
Thế mới biết sự khác biệt giữa một vị Hòa thượng Phật giáo và một nền văn hóa Phật giáo. Điều nầy cũng không có gì lạ, vì trong bao nhiêu năm hoằng pháp, Hòa thượng Thanh Từ đã đi khắp nơi, giảng kinh, dạy pháp, hướng dẫn Phật tử hành Thiền và gần gũi với Phật tử. Các thầy đều nói rằng Hòa thượng Thanh Từ đã được hưởng một phước báu, có thể tích luỹ từ những kiếp trước. Dù sao đi nữa, Hòa thượng là một thực tế, khác với một trung tâm văn hóa Phật giáo, nghe ra có vẻ mơ hồ hơn.

Phật tử có thể cúng dường Tam bảo một cách dễ dàng. Ngay cả việc cúng dường các Tăng Ni cũng là một chuyện rất đơn giản. Cúng dường một khoản tiền lớn để xây chùa, khác hẳn với việc cúng dường để in ấn kinh sách chứ đừng nói đến danh xưng của bốn chữ văn hóa Phật giáo, có vẻ không thực tế cho lắm đối với Phật tử thường chỉ biết đến chùa chiền. Ngay cả chuyện đến chùa lạy Phật, cầu phước, nhưng không phải chùa nào cũng giống như chùa nào. 
 
Chùa nào có thờ linh, các thầy thường xuyên làm lễ cầu an, cầu siêu cho Phật tử thì càng đông người lui tới. Chùa nào không có chúng, không có những lễ nghi như thế thì ít người lui tới, chuyện đó cũng bình thường. Một vị Hòa thượng đã nói đùa: “Chùa thờ linh lúc nào cũng đông đúc Phật tử đến sinh hoạt, việc điều hành chùa tuy bận rộn nhưng dễ dàng vì có phương tiện cúng dường của Phật tử. Trái lại, những ngôi chùa chỉ đào tạo Tăng Ni có trình độ giáo lý cao như cử nhân, tiến sĩ thì phần lớn không có chúng, không có Phật tử”, và vị này đã kết luận: “tiến linh có phần ‘hơn’ tiến sĩ!!!”.

Nghe có vẻ buồn cười, nhưng thực tế là như vậy. Rất nhiều Phật tử đến cúng dường các chùa có thể nói là vì lợi ích cá nhân, vì chùa đối với họ là nơi lui tới, gửi gắm hương linh thân nhân, và còn là nơi đến để cầu phước đức. Thứ hai là vì tình cảm đối với vị trụ trì, xem chùa như một ngôi nhà thứ hai của mình.

Trong khi đó, những cơ sở về văn hóa thì quả là xa xôi và không thực tế cho lắm đối với Phật tử. Phần lớn Phật tử chỉ là những người theo Phật giáo, hiểu Phật giáo qua bốn chữ A-di-đà Phật, đến chùa lễ Phật, cầu an, cầu siêu cho thân nhân, ăn chay, niệm Phật. Họ chỉ cần biết Đức Phật là một vị hoàng tử bỏ ngai vàng cung điện tìm con đường giải thoát cho chúng sanh, nhưng giải thoát thế nào thì họ không hiểu đến nơi đến chốn. Phật tử đọc kinh bằng chữ Pa-li, bằng chữ Phạn, chữ Hán và thuộc lòng để chứng tỏ là một Phật tử thuần thành, nhưng hiểu được chữ Không trong Bát-nhã, thì chắc chắn không có bao nhiêu người.

Bây giờ, càng ngày càng có nhiều người trí thức, nhất là những nhà khoa học, đã từ bỏ những tư duy về tôn giáo khác để nghiên cứu Phật giáo. Tư tưởng Phật giáo giúp cho họ có những giải pháp tìm thấy sự giải thoát về mặt tâm linh trong đời sống con người. Họ nghiên cứu Phật giáo để tìm hiểu những tư tưởng của Đức Phật, để có một nhân sinh quan, một vũ trụ quan sâu sắc, rộng rãi hơn… 
 
Nếu có một trung tâm văn hóa Phật giáo tàng trữ kinh sách và những phương tiện, tài liệu để tìm hiểu Phật giáo thì đó là một nơi lý tưởng cho họ. Ngoài ra, một trung tâm văn hóa Phật giáo còn là nơi để Phật tử sinh hoạt đoàn thể, là nơi các chư Tăng có phương tiện để nghiên cứu kinh sách… Nhưng nếu cùng nghĩ đến chuyện thành lập xây dựng một nơi như thế thì rất khó khăn thực hiện vì nhiều lý do. 
 
Thứ nhất, những nơi gọi là trung tâm văn hóa Phật giáo không phải là một ngôi chùa, mà là những nơi dành cho những người trí thức, những người hiểu rõ về giáo lý chứ không dành cho đa phần Phật tử chỉ biết chùa chiền. Thứ hai, những người trí thức trong hàng ngũ Phật giáo thì hầu hết lại không phải là những Phật tử doanh nhân, không đủ phương tiện để thực hiện được. Sau nữa, nếu đó là công việc của Giáo hội Phật giáo thì lại càng khó khăn vì Giáo hội không thể nào có kinh phí để thực hiện.

Ngay giữa việc cúng dường Tam bảo và cúng dường một Tăng sĩ cũng đã có sự khác nhau. Chùa chiền là nơi thờ Phật và vị trụ trì chỉ là một Tăng sĩ đại diện để điều hành. Cúng dường Tam bảo nghĩa là cúng dường vật chất để duy trì hoạt động của chùa, nhang đèn, hoa quả dâng lên bàn thờ… Không cần phải những phẩm vật giá trị, với lòng thành, người Phật tử có thể chỉ dâng lên bàn thờ Phật một đóa hoa, một ngọn nến… cũng là cúng dường Tam bảo. 
 
Nhưng không phải Phật tử nào cúng dường Tam bảo cũng nghĩ như thế, mà thường khi lại tính đến những vấn đề to lớn thực tế hơn. Tóm lại, cúng dường Tam bảo là Phật sự. Cúng dường cho một vị Tăng Ni nào đó, không phải là cúng dường Tam bảo, mà chỉ là giúp cho vị Tăng Ni đó có phương tiện để sinh hoạt riêng tư, dù đó là một công tác trong việc hoằng pháp.

Ở một ngôi chùa bên Trung Quốc, có một tấm bảng viết một câu, đại ý: “Bất cứ thực hiện công việc gì, cũng phải có tiền, Phật sự bất ngoại lệ”. Nếu không có một cư sĩ Cấp Cô Độc thì hôm nay chúng ta cũng không thể chiêm ngưỡng dấu tích của khu Kỳ viên, vườn Lộc Uyển ở Ấn Độ mà ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế, vị Phật tử này đã bỏ rất nhiều tiền mua để làm một chỗ cho Đức Phật nghỉ ngơi, sinh hoạt.

Nghe nói ông Cấp Cô Độc muốn theo Đức Thế Tôn xuống tóc đi tu, nhưng Phật đã cản lại: “Nếu ông làm một Tỳ-kheo thì phước đức chỉ dành cho một bản thân ông, nhưng nếu ông là một đại gia với cái tâm như thế thì lại có vô số người được hưởng cái phước đó”. Đức Phật thật có lý.

Tuy nhiên, có được một trung tâm văn hóa Phật giáo cũng chưa đủ, cái cần thiết là phải cấy văn hóa Phật giáo một cách rộng rãi vào trong tư duy Phật tử, chứ không phải chỉ để cho họ chỉ biết đến chùa lễ bái mà thôi. 
 
Chuyện xưa kể có người chơi đàn đứng giữa chợ, tấu lên một khúc nhạc phổ thông. Rất đông người xúm quanh để nghe. Cao hứng, người nghệ sĩ này chơi một khúc nhạc cao hơn. Một số người bỏ đi. Khi người này tấu một khúc nhạc rất cao diệu thì chung quanh gần như không còn bao nhiêu người. Phải hy vọng và phải làm thế nào để càng ngày, khi một khúc nhạc cao diệu được tấu lên thì vẫn có rất nhiều người biết thưởng thức. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2018(Xem: 8516)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
21/03/2018(Xem: 15232)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 5806)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5299)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 14610)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 39972)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8055)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 22199)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4928)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4111)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567