Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo Tây Phương.

01/04/201318:18(Xem: 4858)
Phật giáo Tây Phương.

PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG

Nguyên tác:Đại Đức Nyanasatta
Chuyển ngữ:
H.T. Thích Trí Chơn

Phật giáo du nhập các nước Tây Phương bằng cách nào? Trong thời gian Phật còn tại thế, Phật Giáo mới chỉ phát triển đến miền Tây Bắc Ấn Ðộ. Hai thế kỷ sau, đạo Phật lan rộng đến những vùng phía bắc sông Indus ở Punjab và xứ Afghanistan (A Phú Hản). Chẳng bao lâu, Phật Giáo du nhập các nuớc Ba Tư (Persia), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkestan) và miền bắc xứ Aryan thuộc Trung Á. Ðến thời vua A Dục, Phật Giáo đã được phát triển xa rộng, bằng chứng là trên những trụ đá của Ngài dựng nên thời đó có ghi chép về việc nhà vua đã từng phái nhiều đoàn truyền giáo đến thuyết pháp ở các miền xa như Ba Tư, Syria, Ai Cập, Hy Lạp.

Thú thật rằng tôi chưa hề được đọc tài liệu xác đáng nào nói về kết quả của đoàn truyền giáo trên tại Hy Lạp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Nhưng vài tháng trước đây, nhân dịp trên đường về sau chuyến hành hương thăm Nepal và Bắc Ấn Ðộ, tôi đem vấn đề trên thảo luận với một học giả ở Madras thì giáo sư này quyết chắc với tôi trong một cuốn sách viết bằng Anh ngữ vừa mới xuất bản nhan đề “Khảo Cổ Về Các Tôn Giáo” (The Archaeology of Religions) ông đã được thấy có nhiều hình ảnh trình bày về nền văn minh và văn hóa cổ của Phật Giáo ở Macedonia (Hy Lạp) và Thracia. Có thể rằng một ngày gần đây, người ta sẽ tìm ra được nhiều bằng chứng hơn để làm sáng tỏ vấn đề đó.

Trong địa hạt thương mại, xưa kia đã có nhiều đường bộ từ Ấn Ðộ qua Ba Tư, Caucasia đến Armenia cùng những xứ gần Hắc Hải (Black Sea) và Ðịa Trung Hải cũng như các đường thủy từ Ấn Ðộ qua Ai Cập và La Mã. Như vậy, trước niên kỷ Thiên Chúa, Phật Giáo có thể đã được truyền vào Âu Châu do những đoàn người đi buôn qua lại giữa Ấn Ðộ với Hy Lạp và Ý Ðại Lợi. Vào khoảng tám thế kỷ đầu Phật lịch, các thương gia Ả Rập sau khi đến các xứ Phật Giáo Á Châu về, có thể họ đem những câu chuyện đời sống đức Phật và giáo lý của Ngài mà họ đã được nghe những Phật tử miền Trung Á (Central Asia) tường thuật để kể lại với dân chúng bấy giờ. Nhiều bài thơ ngụ ngôn do Aesop, thi gia Hy Lạp hoặc La Fontaine (Pháp) sáng tác đều bắt nguồn ở bộ truyện tiền thân đức Phật (Jatakas).

Nhiều nhà hàng hải như Marco Polo và các vị truyền giáo Cơ đốc đầu tiên đến vùng Viễn đông trở về, họ cũng mang theo nhiều tài liệu, tin tức của những vùng theo Phật Giáo. Về sau, có một vài nhà truyền giáo đã học tiếng Phạn (Sanskrit) để mong dễ thành tựu trong việc phát triển đạo của họ. Những cuốn văn phạm và các bản dịch Phạn ngữ đầu tiên đều do mấy nhà truyền giáo này biên soạn. Khoảng đầu thế kỷ thứ 17, phạm vi kiến thức của những học giả Tây Phương đã bắt đầu mở rộng: Sau khi đồng hóa với nền văn chương, nghệ thuật và triết học mới tìm gặp ở Hy Lạp, họ liền nghĩ đến những vùng đất xa hơn, đó là xứ Ba Tư nằm trên đường đi Ấn Độ. Năm 1610, người ta dịch truyện Gulistan của Ba Tư.

Năm 1800, Anquetil du Perron ấn hành cuốn thánh truyện Avesta cũng của dân tộc Ba Tư. Năm 1802-1803, Anquetil du Perron dịch bộ triết học Áo Nghĩa Thư (Upanishads) viết bằng Phạn ngữ ra tiếng Ba Tư với nhan đề là Onpnek’hat. Sau này bộ Onpnek’hat được dịch ra tiếng Latin mới thật công phu và hữu ích, bởi nó đã giúp cho nhiều triết gia Ðức, nhất là Schelling và Schopenhauer hiểu rõ được nguồn gốc khởi thủy của triết học Ấn Ðộ.

Tuy nhiên sự chú trọng nghiên cứu Phạn ngữ- chính trong lúc học hỏi văn chương và tiếng Phạn, Tây Phương đã biết Phật Giáo- bắt đầu do những học giả Anh quốc. Ông Warren Hastings (1732-1818), vị toàn quyền đầu tiên của Ấn Ðộ đã ủy thác cho 11 vị học giả theo đạo Bà La Môn dịch ra tiếng Anh bộ luật Ấn Ðộ (A Code of Gentoo Laws) và năm 1775, bản dịch đó đã được gởi qua Luân Ðôn. Nhờ sự khích lệ của Warren Hastings, một học giả khác, ông Charles Wilkins đã dịch bộ Bhagavadgita năm 1785 và bộ Hitopadesa năm 1787. Và cuốn văn phạm Phạn văn đầu tiên cũng do ông này soạn. Vào năm 1786 có một học giả người Hy Lạp ông Dimitrios Galanos (1760-1833 ) đến Ấn Ðộ tu khổ hạnh 40 năm với những người theo Bà La Môn giáo ở Ba La Nại ( Benares ) và sau mất tại đó. Ông đã dịch Phạn văn ra tiếng Hy Lạp và soạn cuốn từ điển tiếng Phạn cho những người Hy Lạp dùng. Hiện tác phẩm viết bằng tay này đang còn giữ ở thư viện quốc gia Hy Lạp tại Athens.

Alexander Csoma de Korosi (1774-1842) người Hung Gia Lợi cũng đã sống nhiều năm ở Ấn Ðộ và Tây Tạng. Ông đã ấn hành đầu tiên cuốn văn phạm và từ điển Tây Tạng bằng Anh văn cũng như đã cho đăng tãi vào năm 1836 ở tờ Á Châu tạp chí (Asiatic Review) tài liệu bình giải về bộ Thánh kinh Anjur của Tây Tạng. Sau khi những học giả người Anh dịch xong ra Anh văn bộ luật Manu- bộ luật cần thiết cho chính quyền Anh ở Ấn Ðộ- họ lại dịch bộ Mahabharata và The Hyms of The Rigveda. Không bao lâu nối tiếp những người Anh, có nhiều học giả Pháp và Ðức cũng thông bác tiếng Phạn và họ có thể dịch trực tiếp được nhiều bản Phạn văn. Bởi vậy những học giả, thi gia đầu tiên của hai nước này đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn chương Ấn Ðộ.

Trong lúc sự nghiên cứu Phạn văn ngày càng phát triển mạnh ở Tây Phương thì sự tham học tiếng Bali (Pa- Lị) và những kinh điển Phật Giáo bằng Pali cũng được nhiều học giả chú ý. Năm 1826, Eugen Burnouf và Christian- Lessen cho phát hành đầu tiên tập “Tiểu Luận Về Tiếng Pali” (Essai sur le Pali). Năm 1840 học giả Pháp Eugen Burnouf diễn thuyết về Phật Giáo tại đại học đường College de France và ông đã chinh phục được nhiều sinh viên Phật tử. Từ đó, trường này trở thành nơi nghiên cứu Phật Giáo của nhiều vị học giả khác như R.Roth và Max Muller. Năm 1834-1835, James Prinsep, tòng sự tại sở đúc tiền ở Calcutta là người đầu tiên đọc hiểu được những bia ký của vua A Dục và những bài kệ của các vị sơ tổ Phật Giáo Ấn Ðộ.

Năm 1836, George Turnour cho ấn hành bản dịch ra Anh văn tập Ðại Sử Tích Lan (Mahavamsa) và có in phụ một phần kinh Pali. Năm 1844 Eugen Burnouf cho xuất bản cuốn sách “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” (Introduction à L’histoire du Bouddhisme Indienne). Trong lời nói đầu của tác phẩm này, tác giả có nhắc đến ông B.H Hodgson, nguyên người Anh giữ chức tổng trú sứ ở Nepal. Ông đã khá thông hiểu Phật Giáo và đã cho ấn hành nhiều kinh sách Phật bằng Phạn văn mà lúc bấy giờ đa số người Tây Phương không biết đến.

Ngoài ra, ông còn viết nhiều sách Phật bằng Anh ngữ để gởi sang Anh và Pháp. Chính nhờ những tài liệu này đã giúp cho học giả Pháp Eugen Burnouf soạn tác phẩm “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” nói trên. Năm 1825, tờ Á Ðông tạp chí (Journal Asiatic) phát hành tại St. Petersburg (Nga Xô) cũng có đăng một bài viết về “Lich Sử Ðức Phật” của ông J.J. Schmidt. Ngoài ra khoảng đầu bán thế kỷ 19, có nhiều tài liệu Phật Giáo khác phát hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản và những sách báo Phật Giáo này cũng đã gây được nhiều ảnh hưởng cho đa số học giả khác ở Tây Phương.

Arthur Schopenhauer (1788-1860) là một triết gia Ðức rất sùng bái và ham chuộng Phật Giáo, nhưng có điều không may cho nền Phật Giáo Tây Phương là lúc bấy giờ, về những giáo lý căn bản của đức Phật ông hiểu rất ít. Ông chỉ biết qua những hình thức Phật Giáo đương thời ở vài nước như Tây Tạng, Nepal, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản, chứ ông không phân biệt được sự sai khác giữa Phật Giáo và Ấn Ðộ giáo. Ðây là điều sai lầm chung của phần đông các học giả thời đó. Ðến hiện nay, vẫn còn nhiều người Tây Phương nhầm lẫn Phật Giáo với Ấn Ðộ giáo. Schopenhauer cho rằng triết thuyết của ông giống Phật Giáo; thật ra nó lại gần với Bà La Môn giáo hơn, một đạo giáo mà ông đã chịu ảnh hưởng qua cuốn Oupnek’hat dịch từ bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishads) ra tiếng Ba Tư bởi một tín đồ Hồi Giáo là hoàng thân Dara Sahkoh, anh em với vua Mông Cổ Aurengzed.

Theo bản dịch của Anquetil du Perron, Oupnek’hat nghĩa là Upanishads. Ngay nhan đề cuốn sách ông ta dịch đã sai thì nội dung cuốn đó chắc gì tác giả đã dịch hoàn toàn đúng. Còn nghiên cứu bộ Upanishads qua bản Latin dịch ở bản tiếng Ba Tư của hoàng tử Dara Sahkoh dịch từ nguyên văn Phạn ngữ ra thì đâu phải là công việc dễ. Do đó Arthur Schopenhauer, một triết gia Ðức danh tiếng, triết gia của những tâm hồn bi quan đã khiến Phật Giáo lắm khi bị mang tiếng xấu tiêu cực bởi chính cái triết thuyết của ông, triết thuyết mà Schopenhauer lạm nhận cho nó là giống với Phật Giáo như trong Bách Khoa Tự Điển đã giải thích sai lầm rằng “Thuyết thần bí (Mysticism) của ông Schopenhauer có vài điểm tương đồng với đại thừa Phật Giáo”. Thật ra Schopenhauer ít am tường về Phật Giáo Nguyên Thỉ (tiểu thừa) và lại càng mù tịt hơn về Phật Giáo đại thừa, vì nguồn gốc của giáo lý này đều nằm ở những tạng kinh Tây Tạng, Mông Cổ hoặc Trung Hoa chứ không phải ở bộ Oupnek’hat.

Tuy vậy, năm 1856 người ta thấy trên bàn trong phòng Schopenhauer có đặt một bức tượng Phật Tây Tạng, trong lúc ấy ông cũng đặt cho con chó trắng thân yêu của ông cái tên Atman để chứng tỏ “sự bình đẳng giữa người và thú vật hoặc giữa thú vật và người”. Riêng ý niệm này của Schopenhauer đủ cho ta thấy có sự hòa hợp giữa triết thuyết của ông với Ấn Ðộ giáo và các nhà nghiên cứu Phật Giáo cũng không e ngại bảo rằng thật là một sai lầm lớn nếu có ai cho triết lý bi quan của Schopenhauer là đại thừa Phật Giáo. Vì Phật Giáo không dạy một cách máy móc rằng con vật bình đẳng với con người, bởi lẻ loài vật thuộc khổ cảnh còn con người lại thuộc lạc cảnh. Như vậy rõ thật Schopenhauer là một con người có tâm trạng yếm thế đúng với danh từ “kẻ chán đời” mà Bách Khoa Tự Ðiển đã gán cho ông.

Bộ kinh Pali đầu tiên phát hành ở Tây phương tại Leipzig (Đức Quốc). Năm 1848 là bộ Anechota Palica của ông Friedrerich Spiegel. Trong cuốn này, ngoài kinh Pali có thêm phần dịch và chú thích bằng Ðức ngữ. Năm 1855, cuốn kinh Pháp Cú toàn tiếng Pali với bản dịch Latin của ông Fausboll đầu tiên được ấn hành tại Tây Phương ở Kopenhagen (Ðan Mạch). Năm 1862, cuốn kinh này cũng được ông Albrecht Weber dịch ra tiếng Ðức. Và giữa lúc các nhà nghiên cứu Ấn Ðộ ngữ dịch thêm nhiều bộ kinh Pali, những học giả Phật tử khác cũng đã cố gắng tìm cách phổ biến sâu rộng Phật Giáo vào quần chúng. Hiện nay, phần lớn những bộ kinh Pali, đã được hội “Pali Text Society” dịch ra Anh ngữ hoặc Ðức văn. Nhiều bộ kinh Phật giá trị khác cũng đã được dịch sang tiếng Ý.

Vào khoảng những năm đầu của chính thể Cộng Sản Xô Viết cũng có nhiều sách Phật, nhất là đại thừa ấn hành ở Leningrad (Nga) và các nơi khác. Tại Hung Gia Lợi và những quốc gia gần bể Baltic (thuộc Ðại Tây Dương) đều có nhiều kinh sách Phật Giáo in bằng ngôn ngữ của nước họ. Nhiều kinh sách và từ điển Pali cũng được ấn hành tại Danes (Ðan Mạch) và Dutch (Ðức). Hiện giờ ở Yugoslavia (Nam Tư) cũng có nhiều học giả Phật tử bắt đầu dịch kinh Pali và gần đây ở Lỗ Mã Ni (Rumania), ông viện trưởng đại học quốc gia Bucharest có nhờ tôi gởi đến vị chủ bút ban biên tập bộ Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism) 100 cuốn sách Phật tìm thấy ở thư viện của những đại học và các phân khoa khoa học tại Lỗ Mã Ni. Và khoảng vài ba năm trước đây, sau khi giáo sư Thomas Garigue Masaryk người Tiệp Khắc (Czechoslovakia) qua đời, người ta cũng đã tìm thấy tại thư viện gia đình của ông 27 cuốn sách Phật, đặc biệt nhất là bộ A Tỳ Ðạt Ma (Abhidhamma).

Mấy năm gần đây, ngày lễ Phật Đản cũng đã được trường đại học khoa học tổ chức trọng thể tại Prague (Tiệp Khắc) và ở Ba Lan (Poland) một pháp hữu của tôi đã giảng về Phật Giáo theo những đề tài do trường đại học nêu ra và lần thuyết pháp đầu tiên đó đã được đài phát thanh Ba Lan truyền đi dưới sự bảo trợ của đại học đường khoa học Ba Lan. Những Phật tử ở Ba Lan và Tiệp Khắc đã từng yêu cầu các đạo hữu ở Tích Lan cũng như các nước Phật Giáo Ðông Phương giúp đỡ những Phật sự bằng cách yêu cầu các chính phủ Cộng Sản tại đó cho phép họ được tự do phát triển Phật Giáo dễ dàng theo ý muốn của họ. Ngoài ra, còn nhiều tổ chức Phật Giáo ở Anh, Mỹ, Pháp và Ðức mà tất cả ai cũng đều biết.

Năm 1903, bác sĩ Kart Seidenstuecker thành lập hội Phật Giáo Ðức và ấn hành tạp sang “Phật Học” (Buddhist Review). Năm 1907, hội Phật giáo Anh ra đời và những tạp chí Phật Giáo Anh ngữ đầu tiên gởi sang Anh quốc đều ấn hành tại Miến Ðiện. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện tại Miến Điện nhiều vị Tỳ Kheo Tây Phương. Khoảng vào năm 1907 và 1908, một phái đoàn truyền giáo Miến Điện được gởi sang Anh quốc và sau này cũng có nhiều đoàn truyền giáo Miến Điện tiếp tục sang thuyết pháp tại Anh, Ðức, Mỹ, Pháp cùng nhiều quốc gia khác và họ đã tận lực phổ biến Phật Giáo tại các nước Âu Châu. Hơn nữa, những đại hội Phật Giáo thế giới, các cuộc lễ kỷ niệm Đức Phật nhập Niết Bàn tổ chức tại nhiều nước Phật Giáo Á Châu mấy năm vừa qua với những buổi phát thanh, chiếu phim và ấn hành những sách báo, tạp chí nói về Phật Giáo Á Châu cũng đã giúp ích nhiều cho sự bành trướng Phật Giáo tại các quốc gia Tây Phương.

(Trích tập chíThe International Buddhist News Forumsố tháng 11 năm 1961).

---o0o---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2022(Xem: 4542)
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 15 tháng 2 năm 2022, Pháp sư Diệu Tạng Giám tự Phật Quang Sơn Tây Phương Tự cùng đoàn Phật tử đã tổ chức buổi lễ truyền Tam quy Tam bảo và Ngũ giới cho các quân nhân tại Căn cứ Huấn luyện Thủy quân Lục Chiến, San Diego, Hoa Kỳ. Trước khi cử hành nghi lễ, Pháp sư Diệu Tạng giảng ý nghĩa Tam quy, Ngũ giới, gia trì chúc phúc cát tường cho các quân nhân luôn an trú trong chánh niệm và trong quân lữ luôn hùng dũng trong sự nghiệp giữ vững an ninh quốc gia.
17/02/2022(Xem: 4518)
“Glocalization” là một thuật ngữ, một ngôn ngữ lai giữa toàn cầu hóa và bản địa hóa, sự xuất hiện đồng thời của cả khuynh hướng phổ cập hóa và cụ thể hóa trong các hệ thống xã hội, chính trị và kinh tế đương đại. (Joachim Blatter & Munro 2013) Toàn cầu hóa đã được sử dụng rộng rãi theo cách tiêu cực, để giải thích những hậu quả không mong muốn đương thời, do nỗ lực của các cơ sở kinh tế và chính trị xuyên quốc gia, từ các liên minh quân sự và kinh tế như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cho các tập đoàn đa quốc gia như Huawei, McDonald's, Nestle, Starbucks và Toyota. Mặt khác, bản địa hóa đã nhận được sự ưu ái của công chúng và truyền thông bởi nó được sự tôn trọng rõ ràng đối với sự đa dạng, bảo tồn di sản và truyền thống địa phương và 'đôi khi' quan tâm đến lợi ích của thiểu số.
13/02/2022(Xem: 2615)
Diễn đàn "Hài hòa đa nguyên Tôn giáo Thế giới của Liên Hợp Quốc 2022" đã diễn ra vào ngày 3 tháng 2 vừa qua, do Quốc tế Phật Quang Sơn, Liên Hợp Quốc, liên minh châu Phi và các tổ chức phi chính phủ cùng tham gia, đặc biệt mời các đối tác xã hội dân sự và các tổ chức tôn giáo, Pháp sư Tuệ Đông, trụ Trì Tây Lai Tự, Phó Tổng Thư ký Quốc tế Phật Quang Sơn đại biểu Phật giáo phát biểu: "Đến năm 2022 là trọng yếu, đánh dấu kỷ niệm chu niên lần thứ 10, tiêu chí Quốc tế Phật Quang Sơn hài hòa hội nhập hoạt động Liên tôn Quốc tế. Đại dịch Covid-19 hiểm ác đã đặc giả thiết không đúng đắn về tất cả sự sống trên Trái đất, gây ra những thách thức chưa từng có trên quy mô toàn cầu, chủ đề năm nay "Niềm tin và tinh thần lãnh đạo, phản kháng nạn kỳ thị và xung đột trong quá trình Phục hồi Đại dịch", kiến lập những nhịp cầu xuyên biên giới, bằng cách tập hợp các nhà lãnh đạo tôn giáo và tinh thần để truyền cảm hứng cho các dân tộc trên thế giới, kế tục trí lực để thúc đẩy sự nghiệp phát triển một
13/02/2022(Xem: 4498)
Ông Holland Kotter, đồng trưởng ban phê bình nghệ thuật trên tờ New York Times, đã đưa ra một đánh giá tuyệt vời về cuộc triển lãm. Trong đó, Holland Kotter kể lại chuyến đi đến Nhật Bản vào năm 1983, nơi lần đầu tiên ông trải nghiệm khi tương tác với các Phật tử đang làm việc được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Tokyo: "Khi tôi gặp một pho tượng Phật Đương lai Hạ sinh Di Lặc được tạc bằng gỗ tuyệt xảo từ thế kỷ thứ 9, một du khách đến thăm tôi đã nhanh chóng vỗ tay hai lần, một điều gì đó (tôi sẽ tìm hiểu) mà những du khách đến các ngôi tự viện Phật giáo để tôn vinh vị Phật hay vi Bồ tát nào đó". (New York Times)
10/02/2022(Xem: 7597)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, bậc đạo sư kính yêu, vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam với tầm nhìn xa trông rộng đã an nhiên viên tịch, trụ thế 97 xuân. Ngài đã và đang là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. Mặc dù phải nhẫn nhịn cả đau khổ và số phận lưu đày bao thập kỷ, Ngài vẫn liên tục tuôn trào suối nguồn từ bi tâm, luôn thắp sáng ánh dương quang trí tuệ cho thế giới nhân loại được tươi mát và ấm áp.
10/02/2022(Xem: 5296)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vong ở Ấn Độ. Trong giai đoạn 1949-50, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gửi một đội quân đến xâm lược đất nước của tôi. Trong gần một thập kỷ, tôi vẫn là nhà lãnh đạo chính trị cũng như tinh thần của người dân và cố gắng thiết lập lại mối quan hệ hòa bình giữa hai quốc gia của chúng tôi. Nhưng nhiệm vụ được chứng minh là bất khả thi. Tôi đã đi đến một kết luận không mấy vui vẻ rằng tôi có thể phục vụ người dân của mình tốt hơn từ bên ngoài.
10/02/2022(Xem: 7753)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
09/02/2022(Xem: 18547)
Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam Sử Lược (trọn bộ hai tập, do Hòa Thượng Giới Đức biên soạn)
08/02/2022(Xem: 4360)
Tại làng baho swabi, quận Swabi, nay là Khyber Pakhtunkhwa, các nhà khảo cổ và Bảo tàng KP đã phát hiện một Bảo tháp Phật giáo 1800 tuổi, các di vật và đồ tạo tác. Theo Daily Pakistan, đã được phát hiện hơn 400 cổ vật và Bảo tháp Phật giáo có niên đại 1800 năm.
05/02/2022(Xem: 3164)
Vào ngày 19 tháng 1 vừa qua, Cư sĩ Gotabaya Rajapaksa, Tổng thống nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka đã trao giấy Quyết định bổ nhiệm Thượng tọa Dhammakitti, vị tăng sĩ Phật giáo sinh ra tại Sri Lanka, có quốc tịch Hàn Quốc làm Tổng quan Phật giáo Hàn Quốc-Sri Lanka. Đây là lần đầu tiên Chính phủ Sri Lanka bổ nhiệm một vị tăng sĩ Phật giáo làm kênh giao lưu với Đại Hàn Dân Quốc ở cấp quốc gia và trao quyền Tổng quan Phật giáo Hàn Quốc-Sri Lanka. Việc bổ nhiệm Thượng tọa Dhammakitti với trách nhiệm nêu trên có ý nghĩa quan trọng bởi Chính phủ Sri Lanka đã chứng nhận vị tăng sĩ này đã đóng góp vào việc giao lưu quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia Phật giáo Hàn Quốc-Sri Lanka như một kênh liên lạc chính thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567