Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo Tây Phương.

01/04/201318:18(Xem: 4857)
Phật giáo Tây Phương.

PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG

Nguyên tác:Đại Đức Nyanasatta
Chuyển ngữ:
H.T. Thích Trí Chơn

Phật giáo du nhập các nước Tây Phương bằng cách nào? Trong thời gian Phật còn tại thế, Phật Giáo mới chỉ phát triển đến miền Tây Bắc Ấn Ðộ. Hai thế kỷ sau, đạo Phật lan rộng đến những vùng phía bắc sông Indus ở Punjab và xứ Afghanistan (A Phú Hản). Chẳng bao lâu, Phật Giáo du nhập các nuớc Ba Tư (Persia), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkestan) và miền bắc xứ Aryan thuộc Trung Á. Ðến thời vua A Dục, Phật Giáo đã được phát triển xa rộng, bằng chứng là trên những trụ đá của Ngài dựng nên thời đó có ghi chép về việc nhà vua đã từng phái nhiều đoàn truyền giáo đến thuyết pháp ở các miền xa như Ba Tư, Syria, Ai Cập, Hy Lạp.

Thú thật rằng tôi chưa hề được đọc tài liệu xác đáng nào nói về kết quả của đoàn truyền giáo trên tại Hy Lạp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Nhưng vài tháng trước đây, nhân dịp trên đường về sau chuyến hành hương thăm Nepal và Bắc Ấn Ðộ, tôi đem vấn đề trên thảo luận với một học giả ở Madras thì giáo sư này quyết chắc với tôi trong một cuốn sách viết bằng Anh ngữ vừa mới xuất bản nhan đề “Khảo Cổ Về Các Tôn Giáo” (The Archaeology of Religions) ông đã được thấy có nhiều hình ảnh trình bày về nền văn minh và văn hóa cổ của Phật Giáo ở Macedonia (Hy Lạp) và Thracia. Có thể rằng một ngày gần đây, người ta sẽ tìm ra được nhiều bằng chứng hơn để làm sáng tỏ vấn đề đó.

Trong địa hạt thương mại, xưa kia đã có nhiều đường bộ từ Ấn Ðộ qua Ba Tư, Caucasia đến Armenia cùng những xứ gần Hắc Hải (Black Sea) và Ðịa Trung Hải cũng như các đường thủy từ Ấn Ðộ qua Ai Cập và La Mã. Như vậy, trước niên kỷ Thiên Chúa, Phật Giáo có thể đã được truyền vào Âu Châu do những đoàn người đi buôn qua lại giữa Ấn Ðộ với Hy Lạp và Ý Ðại Lợi. Vào khoảng tám thế kỷ đầu Phật lịch, các thương gia Ả Rập sau khi đến các xứ Phật Giáo Á Châu về, có thể họ đem những câu chuyện đời sống đức Phật và giáo lý của Ngài mà họ đã được nghe những Phật tử miền Trung Á (Central Asia) tường thuật để kể lại với dân chúng bấy giờ. Nhiều bài thơ ngụ ngôn do Aesop, thi gia Hy Lạp hoặc La Fontaine (Pháp) sáng tác đều bắt nguồn ở bộ truyện tiền thân đức Phật (Jatakas).

Nhiều nhà hàng hải như Marco Polo và các vị truyền giáo Cơ đốc đầu tiên đến vùng Viễn đông trở về, họ cũng mang theo nhiều tài liệu, tin tức của những vùng theo Phật Giáo. Về sau, có một vài nhà truyền giáo đã học tiếng Phạn (Sanskrit) để mong dễ thành tựu trong việc phát triển đạo của họ. Những cuốn văn phạm và các bản dịch Phạn ngữ đầu tiên đều do mấy nhà truyền giáo này biên soạn. Khoảng đầu thế kỷ thứ 17, phạm vi kiến thức của những học giả Tây Phương đã bắt đầu mở rộng: Sau khi đồng hóa với nền văn chương, nghệ thuật và triết học mới tìm gặp ở Hy Lạp, họ liền nghĩ đến những vùng đất xa hơn, đó là xứ Ba Tư nằm trên đường đi Ấn Độ. Năm 1610, người ta dịch truyện Gulistan của Ba Tư.

Năm 1800, Anquetil du Perron ấn hành cuốn thánh truyện Avesta cũng của dân tộc Ba Tư. Năm 1802-1803, Anquetil du Perron dịch bộ triết học Áo Nghĩa Thư (Upanishads) viết bằng Phạn ngữ ra tiếng Ba Tư với nhan đề là Onpnek’hat. Sau này bộ Onpnek’hat được dịch ra tiếng Latin mới thật công phu và hữu ích, bởi nó đã giúp cho nhiều triết gia Ðức, nhất là Schelling và Schopenhauer hiểu rõ được nguồn gốc khởi thủy của triết học Ấn Ðộ.

Tuy nhiên sự chú trọng nghiên cứu Phạn ngữ- chính trong lúc học hỏi văn chương và tiếng Phạn, Tây Phương đã biết Phật Giáo- bắt đầu do những học giả Anh quốc. Ông Warren Hastings (1732-1818), vị toàn quyền đầu tiên của Ấn Ðộ đã ủy thác cho 11 vị học giả theo đạo Bà La Môn dịch ra tiếng Anh bộ luật Ấn Ðộ (A Code of Gentoo Laws) và năm 1775, bản dịch đó đã được gởi qua Luân Ðôn. Nhờ sự khích lệ của Warren Hastings, một học giả khác, ông Charles Wilkins đã dịch bộ Bhagavadgita năm 1785 và bộ Hitopadesa năm 1787. Và cuốn văn phạm Phạn văn đầu tiên cũng do ông này soạn. Vào năm 1786 có một học giả người Hy Lạp ông Dimitrios Galanos (1760-1833 ) đến Ấn Ðộ tu khổ hạnh 40 năm với những người theo Bà La Môn giáo ở Ba La Nại ( Benares ) và sau mất tại đó. Ông đã dịch Phạn văn ra tiếng Hy Lạp và soạn cuốn từ điển tiếng Phạn cho những người Hy Lạp dùng. Hiện tác phẩm viết bằng tay này đang còn giữ ở thư viện quốc gia Hy Lạp tại Athens.

Alexander Csoma de Korosi (1774-1842) người Hung Gia Lợi cũng đã sống nhiều năm ở Ấn Ðộ và Tây Tạng. Ông đã ấn hành đầu tiên cuốn văn phạm và từ điển Tây Tạng bằng Anh văn cũng như đã cho đăng tãi vào năm 1836 ở tờ Á Châu tạp chí (Asiatic Review) tài liệu bình giải về bộ Thánh kinh Anjur của Tây Tạng. Sau khi những học giả người Anh dịch xong ra Anh văn bộ luật Manu- bộ luật cần thiết cho chính quyền Anh ở Ấn Ðộ- họ lại dịch bộ Mahabharata và The Hyms of The Rigveda. Không bao lâu nối tiếp những người Anh, có nhiều học giả Pháp và Ðức cũng thông bác tiếng Phạn và họ có thể dịch trực tiếp được nhiều bản Phạn văn. Bởi vậy những học giả, thi gia đầu tiên của hai nước này đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn chương Ấn Ðộ.

Trong lúc sự nghiên cứu Phạn văn ngày càng phát triển mạnh ở Tây Phương thì sự tham học tiếng Bali (Pa- Lị) và những kinh điển Phật Giáo bằng Pali cũng được nhiều học giả chú ý. Năm 1826, Eugen Burnouf và Christian- Lessen cho phát hành đầu tiên tập “Tiểu Luận Về Tiếng Pali” (Essai sur le Pali). Năm 1840 học giả Pháp Eugen Burnouf diễn thuyết về Phật Giáo tại đại học đường College de France và ông đã chinh phục được nhiều sinh viên Phật tử. Từ đó, trường này trở thành nơi nghiên cứu Phật Giáo của nhiều vị học giả khác như R.Roth và Max Muller. Năm 1834-1835, James Prinsep, tòng sự tại sở đúc tiền ở Calcutta là người đầu tiên đọc hiểu được những bia ký của vua A Dục và những bài kệ của các vị sơ tổ Phật Giáo Ấn Ðộ.

Năm 1836, George Turnour cho ấn hành bản dịch ra Anh văn tập Ðại Sử Tích Lan (Mahavamsa) và có in phụ một phần kinh Pali. Năm 1844 Eugen Burnouf cho xuất bản cuốn sách “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” (Introduction à L’histoire du Bouddhisme Indienne). Trong lời nói đầu của tác phẩm này, tác giả có nhắc đến ông B.H Hodgson, nguyên người Anh giữ chức tổng trú sứ ở Nepal. Ông đã khá thông hiểu Phật Giáo và đã cho ấn hành nhiều kinh sách Phật bằng Phạn văn mà lúc bấy giờ đa số người Tây Phương không biết đến.

Ngoài ra, ông còn viết nhiều sách Phật bằng Anh ngữ để gởi sang Anh và Pháp. Chính nhờ những tài liệu này đã giúp cho học giả Pháp Eugen Burnouf soạn tác phẩm “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” nói trên. Năm 1825, tờ Á Ðông tạp chí (Journal Asiatic) phát hành tại St. Petersburg (Nga Xô) cũng có đăng một bài viết về “Lich Sử Ðức Phật” của ông J.J. Schmidt. Ngoài ra khoảng đầu bán thế kỷ 19, có nhiều tài liệu Phật Giáo khác phát hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản và những sách báo Phật Giáo này cũng đã gây được nhiều ảnh hưởng cho đa số học giả khác ở Tây Phương.

Arthur Schopenhauer (1788-1860) là một triết gia Ðức rất sùng bái và ham chuộng Phật Giáo, nhưng có điều không may cho nền Phật Giáo Tây Phương là lúc bấy giờ, về những giáo lý căn bản của đức Phật ông hiểu rất ít. Ông chỉ biết qua những hình thức Phật Giáo đương thời ở vài nước như Tây Tạng, Nepal, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản, chứ ông không phân biệt được sự sai khác giữa Phật Giáo và Ấn Ðộ giáo. Ðây là điều sai lầm chung của phần đông các học giả thời đó. Ðến hiện nay, vẫn còn nhiều người Tây Phương nhầm lẫn Phật Giáo với Ấn Ðộ giáo. Schopenhauer cho rằng triết thuyết của ông giống Phật Giáo; thật ra nó lại gần với Bà La Môn giáo hơn, một đạo giáo mà ông đã chịu ảnh hưởng qua cuốn Oupnek’hat dịch từ bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishads) ra tiếng Ba Tư bởi một tín đồ Hồi Giáo là hoàng thân Dara Sahkoh, anh em với vua Mông Cổ Aurengzed.

Theo bản dịch của Anquetil du Perron, Oupnek’hat nghĩa là Upanishads. Ngay nhan đề cuốn sách ông ta dịch đã sai thì nội dung cuốn đó chắc gì tác giả đã dịch hoàn toàn đúng. Còn nghiên cứu bộ Upanishads qua bản Latin dịch ở bản tiếng Ba Tư của hoàng tử Dara Sahkoh dịch từ nguyên văn Phạn ngữ ra thì đâu phải là công việc dễ. Do đó Arthur Schopenhauer, một triết gia Ðức danh tiếng, triết gia của những tâm hồn bi quan đã khiến Phật Giáo lắm khi bị mang tiếng xấu tiêu cực bởi chính cái triết thuyết của ông, triết thuyết mà Schopenhauer lạm nhận cho nó là giống với Phật Giáo như trong Bách Khoa Tự Điển đã giải thích sai lầm rằng “Thuyết thần bí (Mysticism) của ông Schopenhauer có vài điểm tương đồng với đại thừa Phật Giáo”. Thật ra Schopenhauer ít am tường về Phật Giáo Nguyên Thỉ (tiểu thừa) và lại càng mù tịt hơn về Phật Giáo đại thừa, vì nguồn gốc của giáo lý này đều nằm ở những tạng kinh Tây Tạng, Mông Cổ hoặc Trung Hoa chứ không phải ở bộ Oupnek’hat.

Tuy vậy, năm 1856 người ta thấy trên bàn trong phòng Schopenhauer có đặt một bức tượng Phật Tây Tạng, trong lúc ấy ông cũng đặt cho con chó trắng thân yêu của ông cái tên Atman để chứng tỏ “sự bình đẳng giữa người và thú vật hoặc giữa thú vật và người”. Riêng ý niệm này của Schopenhauer đủ cho ta thấy có sự hòa hợp giữa triết thuyết của ông với Ấn Ðộ giáo và các nhà nghiên cứu Phật Giáo cũng không e ngại bảo rằng thật là một sai lầm lớn nếu có ai cho triết lý bi quan của Schopenhauer là đại thừa Phật Giáo. Vì Phật Giáo không dạy một cách máy móc rằng con vật bình đẳng với con người, bởi lẻ loài vật thuộc khổ cảnh còn con người lại thuộc lạc cảnh. Như vậy rõ thật Schopenhauer là một con người có tâm trạng yếm thế đúng với danh từ “kẻ chán đời” mà Bách Khoa Tự Ðiển đã gán cho ông.

Bộ kinh Pali đầu tiên phát hành ở Tây phương tại Leipzig (Đức Quốc). Năm 1848 là bộ Anechota Palica của ông Friedrerich Spiegel. Trong cuốn này, ngoài kinh Pali có thêm phần dịch và chú thích bằng Ðức ngữ. Năm 1855, cuốn kinh Pháp Cú toàn tiếng Pali với bản dịch Latin của ông Fausboll đầu tiên được ấn hành tại Tây Phương ở Kopenhagen (Ðan Mạch). Năm 1862, cuốn kinh này cũng được ông Albrecht Weber dịch ra tiếng Ðức. Và giữa lúc các nhà nghiên cứu Ấn Ðộ ngữ dịch thêm nhiều bộ kinh Pali, những học giả Phật tử khác cũng đã cố gắng tìm cách phổ biến sâu rộng Phật Giáo vào quần chúng. Hiện nay, phần lớn những bộ kinh Pali, đã được hội “Pali Text Society” dịch ra Anh ngữ hoặc Ðức văn. Nhiều bộ kinh Phật giá trị khác cũng đã được dịch sang tiếng Ý.

Vào khoảng những năm đầu của chính thể Cộng Sản Xô Viết cũng có nhiều sách Phật, nhất là đại thừa ấn hành ở Leningrad (Nga) và các nơi khác. Tại Hung Gia Lợi và những quốc gia gần bể Baltic (thuộc Ðại Tây Dương) đều có nhiều kinh sách Phật Giáo in bằng ngôn ngữ của nước họ. Nhiều kinh sách và từ điển Pali cũng được ấn hành tại Danes (Ðan Mạch) và Dutch (Ðức). Hiện giờ ở Yugoslavia (Nam Tư) cũng có nhiều học giả Phật tử bắt đầu dịch kinh Pali và gần đây ở Lỗ Mã Ni (Rumania), ông viện trưởng đại học quốc gia Bucharest có nhờ tôi gởi đến vị chủ bút ban biên tập bộ Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism) 100 cuốn sách Phật tìm thấy ở thư viện của những đại học và các phân khoa khoa học tại Lỗ Mã Ni. Và khoảng vài ba năm trước đây, sau khi giáo sư Thomas Garigue Masaryk người Tiệp Khắc (Czechoslovakia) qua đời, người ta cũng đã tìm thấy tại thư viện gia đình của ông 27 cuốn sách Phật, đặc biệt nhất là bộ A Tỳ Ðạt Ma (Abhidhamma).

Mấy năm gần đây, ngày lễ Phật Đản cũng đã được trường đại học khoa học tổ chức trọng thể tại Prague (Tiệp Khắc) và ở Ba Lan (Poland) một pháp hữu của tôi đã giảng về Phật Giáo theo những đề tài do trường đại học nêu ra và lần thuyết pháp đầu tiên đó đã được đài phát thanh Ba Lan truyền đi dưới sự bảo trợ của đại học đường khoa học Ba Lan. Những Phật tử ở Ba Lan và Tiệp Khắc đã từng yêu cầu các đạo hữu ở Tích Lan cũng như các nước Phật Giáo Ðông Phương giúp đỡ những Phật sự bằng cách yêu cầu các chính phủ Cộng Sản tại đó cho phép họ được tự do phát triển Phật Giáo dễ dàng theo ý muốn của họ. Ngoài ra, còn nhiều tổ chức Phật Giáo ở Anh, Mỹ, Pháp và Ðức mà tất cả ai cũng đều biết.

Năm 1903, bác sĩ Kart Seidenstuecker thành lập hội Phật Giáo Ðức và ấn hành tạp sang “Phật Học” (Buddhist Review). Năm 1907, hội Phật giáo Anh ra đời và những tạp chí Phật Giáo Anh ngữ đầu tiên gởi sang Anh quốc đều ấn hành tại Miến Ðiện. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện tại Miến Điện nhiều vị Tỳ Kheo Tây Phương. Khoảng vào năm 1907 và 1908, một phái đoàn truyền giáo Miến Điện được gởi sang Anh quốc và sau này cũng có nhiều đoàn truyền giáo Miến Điện tiếp tục sang thuyết pháp tại Anh, Ðức, Mỹ, Pháp cùng nhiều quốc gia khác và họ đã tận lực phổ biến Phật Giáo tại các nước Âu Châu. Hơn nữa, những đại hội Phật Giáo thế giới, các cuộc lễ kỷ niệm Đức Phật nhập Niết Bàn tổ chức tại nhiều nước Phật Giáo Á Châu mấy năm vừa qua với những buổi phát thanh, chiếu phim và ấn hành những sách báo, tạp chí nói về Phật Giáo Á Châu cũng đã giúp ích nhiều cho sự bành trướng Phật Giáo tại các quốc gia Tây Phương.

(Trích tập chíThe International Buddhist News Forumsố tháng 11 năm 1961).

---o0o---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2022(Xem: 3327)
Thế giới đang chứng kiến cuộc chiến khốc liệt tại Ukraine. Chiến tranh đã chính thức khởi động vào ngày thứ Năm, 24 tháng 2 năm 2022, khi quân đội Nga tấn công sâu vào lãnh thổ Ukraine. Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelensky, đã cùng nhân dân quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc khiến cho hầu hết các quốc gia và nhân dân trên thế giới cảm động và hết lòng ủng hộ. Chiến sự xảy ra suốt hơn 2 tuần qua khiến hơn 1 triệu dân Ukraine phải di tản qua các nước tự do láng giềng; hàng nghìn người dân vô tội đã bị tử vong hoặc thương vong dưới bom đạn từ quân đội Nga; nhiều thành phố, khu dân cư bị phá hủy nặng nề, và gần nhất, ngày 9 tháng 3 năm 2022, quân đội Nga đã ném bom vào một bệnh viện phụ sản ở thành phố cảng miền nam Mariupol của Ukraine khiến một số bệnh nhân phụ nữ, nhi đồng bị thiệt mạng hoặc bị thương.
11/03/2022(Xem: 2366)
Sự hiện diện của nền dân chủ tự do gắn liền với những tư tưởng tự do, bình đẳng có vẻ như là điều hiển nhiên và không thể đảo ngược. Nhưng những tư tưởng này còn mong manh hơn chúng ta nghĩ. Sự thành công của chúng trong thế kỷ 20 phụ thuộc vào những điều kiện công nghệ độc đáo có thể được chứng minh là không bền vững. Vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, chủ nghĩa tự do cá nhân bắt đầu mất đi sự tin cậy. Các câu hỏi về khả năng của nền dân chủ tự do cho tầng lớp trung lưu đã ngày thêm nhiều hơn; chính trị thì ngày thêm man rợ và càng ngày thêm có nhiều quốc gia có những lãnh đạo thể hiện xu hướng mị dân và độc tài. Nguyên nhân gây ra sự chuyển biến mang tính chính trị này thật phức tạp, nhưng chúng có vẻ như đan xen với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay. Công nghệ dành cho nền dân chủ thay đổi và cũng như trí tuệ nhân tạo (AI) đang phát triển, thậm chí nó còn có thể đi xa hơn nữa.
10/03/2022(Xem: 2234)
Hôm thứ Hai, ngày 07 tháng 03 vừa qua, người phát ngôn của Bộ Lễ nghi và Tôn giáo Vương quốc Campuchia Cư sĩ Seng Somuny xác nhận rằng, tính đến ngày 05 tháng 03 vừa qua, có đến 1.751 người đã mắc Covid-19 hầu hết là các chức sắc tôn giáo. Cư sĩ Seng Somuny cho biết, trong số những người bị nhiễm Covid-19 có 23 trường hợp tử vong và 1.264 người đã được chữa khỏi. Trong số những người bị nhiễm Covid-19, có 315 người Hồi giáo, 06 người tử vong và 305 người đã được chữa khỏi. Thiên Chúa giáo có 23 trường hợp bị mắc Covi-19, một người tử vong và 116 người đã được chữa khỏi. Trong số những người tôn giáo khác, có tổng cộng 38 nhà sư Phật giáo bị mắc Covid-19 và tất cả những người khác đều đã bình phục.
02/03/2022(Xem: 2566)
Đang bình yên vì đâu bom đạn nổ ? Do lòng tham hay cuồng vọng vô minh ? Được gì đây khi đánh mất thanh bình ! Nghiệp lực tạo đầy tang thương đổ vỡ !
02/03/2022(Xem: 2518)
Trắc nghiệm trong Nghiên cứu Chiến lược: Tại sao mã thông báo cho nữ Thủ tướng thứ ba của Ấn Độ Indira Gāndhī về vụ Thử nghiệm hạt nhân Pokhran 1 thành công; Bài kiểm tra đầu tiên có tên mã là "Đức Phật mỉm cười" (Buddha is smiling), được tiến hành vào tháng 5 năm 1974, trong khi các bạn suy nghĩ về nó, hãy chuyển sang tình hình nóng bỏng ở Ukraine. Vào thời điểm các bạn đang đọc tin này, quân đội của Nga đã tấn công áp sát rất gần thủ đô Kyiv của Ukraine. Câu hỏi thường được thắc mắc trong vài ngày qua và sẽ tiếp tục vang vọng trong nhiều thập kỷ tới, liệu Tổng thống Nga Vladimir Putin có dễ dàng uy hiếp Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, nếu quốc gia này không từ bỏ kho dự trữ vũ khí hạt nhân sau Bản ghi nhớ Budapest 1994.
01/03/2022(Xem: 3879)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3864)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
01/03/2022(Xem: 2915)
Tôi thật đau lòng như kim châm muối xát về cuộc xung đột đổ máu tại Ukraine. Thế giới của chúng ta luôn tương tác phụ thuộc lẫn nhau, đến mức xung đột bạo lực giữa hai quốc gia chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến phần còn lại của nhân loại thế giới. Chiến tranh đã lỗi thời - bất bạo động là cách duy nhất. Chúng ta cần phát triển ý thức về tính hợp nhất của nhân loại, bằng cách coi những người khác đều là huynh đệ cùng chung sống trong đại gia đình trên hành tinh này. Đây là cách chúng ta sẽ xây dựng một thế giới hòa bình hơn. Các vấn đề và bất bạo động được giải quyết tốt nhất thông qua đối thoại. Thực sự hòa bình có được nhờ sự hiểu hiểu biết, cảm thông và tôn trọng hạnh phúc của nhau.
26/02/2022(Xem: 2396)
Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc đầu tư kiến tạo Trường Đại học Nông nghiệp Công nghệ cao Borigaram (보리가람농업기술대학) tại làng Mwasonga, cách thành phố lớn nhất của Tanzania, TP.Dar es Salaam, khoảng 3 giờ đồng hồ đi xe hơi, Cộng hòa Thống nhất Tanzania, một quốc gia ở bờ biển phía đông châu Phi và đã đi vào hoạt động cho lớp học đầu tiên. Gồm 60 sinh viên được thi tuyển từ khắp Tanzania, họ được lưu trú tại Ký túc xá trong khuôn viên trường từ tháng 2 năm 2016 và đã đưa ra những học kỳ đầu tiên.
26/02/2022(Xem: 2122)
Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan phải hứng chịu các cuộc nội chiến kéo dài liên miên, chiến tranh tàn phá khốc liệt, hiện người dân nơi đây đang sống trong cảnh mùa giá lạnh cay đắng. Nhiều người đang phải chịu cảnh đói và rét, khẩn cấp cứu hộ quốc tế là tối cần thiết. Với từ bi tâm cứu trợ nhân đạo, Pháp sư Giác Thành, Phó Tổng Thư ký Quốc tế Phật Quang Sơn đặc trách vực Đông Nam Á, cùng đồng tâm hợp lực với tổ chức Hòa bình Thế giới Malaysia, Ngân hàng Đầu tư Kỹ thuật số Golden Horse, đã tiến hành thành lập Nhóm Sưởi ấm và Chăm sóc Nhân đạo để viện trợ nhân đạo cho nhân dân các địa phương Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567