Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư sĩ WS Merwin nhà Thơ người Mỹ, Thiền giả Tham gia Chống Chiến tranh tại Việt Nam

13/01/202216:58(Xem: 4548)
Cư sĩ WS Merwin nhà Thơ người Mỹ, Thiền giả Tham gia Chống Chiến tranh tại Việt Nam

Cư sĩ William Stanley Merwin 3
Cư sĩ WS Merwin nhà Thơ người Mỹ,
Thiền giả Tham gia Chống Chiến tranh tại Việt Nam


Cư sĩ WS Merwin, cựu Viện trưởng Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, một bậc thầy thơ đa năng người Mỹ, với nhiều phong cách khác nhau, đã sáng tác hơn 50 tác phẩm thơ và văn, nhiều tác phẩm chuyển dịch.Trong phong trào chống chiến tranh vào những thập niên 1960, các tác phẩm độc đáo của ông được đặc trưng bởi lối kể chuyện gián tiếp, không ngắt quãng. Trong những thập niên 1980-1990, việc sáng tác của ông lấy cảm hứng từ triết lý đạo Phật và sinh thái sâu sắc. 


Thuận theo nguyên lý vô thường, có sinh ắt có tử, Cư sĩ WS Merwin đã an nhiên trút hơi thở vào ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại Haiku, Maui, Hawaii, Hoa Kỳ, thọ 92 xuân.


Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã cảm xúc về sự từ giã trần gian của Cư sĩ WS Merwin:


"Tôi rất cảm hứng từ những bài thơ, văn của ông WS Merwin, bởi những vần thơ hay, những áng văn tuyệt tác dạy chúng ta về bản thân, cách con người hòa quyện với thiên nhiên. Hầu hết chúng ta không dành thời gian nhiều về thơ ca, nhưng sự vĩnh biệt cõi thế của ông WS Merwin đã nhắc nhở tôi về cách của một bài thơ, một bài văn có thể truyền cảm hứng và những ý tưởng thanh cao."


Theo tờ New York Times đưa tin, Cư sĩ WS Merwin, được biết đến với những bài thơ sử dụng ngôn ngữ để gợi lên niềm vui Tịch lặng, niềm vui tự sâu lắng bên trong, ngôn ngữ trần gian không thể diễn đạt, thường diễn tả các chủ đề của thế giới tự nhiên, tâm linh, lịch sử cá nhân và sự vô thường của cuộc sống.


Cư sĩ WS Merwin đã từng được bổ nhiệm, cùng Rita Dove và Louise Glück, làm Cố vấn Đặc biệt về Thơ cho Thư viện Quốc hội Mỹ nhiệm kỳ 1999–2000, và làm Poet Laureate nhiệm kỳ 2010–2011. Cư sĩ W. S. Merwin được xem là một trong những người có đóng góp đáng kể nhất cho nền thơ ca Mỹ trong cả thế kỷ 20 và 21.


Cư sĩ WS Merwin là một vị hành giả tu tập thiền định Phật giáo thâm niên, năm 1976, ông đã di chuyển từ New Yorrk đến Hawaii để cầu học thiền với Thiền sư Robert Aitken Roshi (1917-2010), thuộc dòng truyền thừa Giáo đoàn Tam Bảo (三寶教団, Sanbo Kyōdan), vị Sư trưởng của Tăng thân Kim cương thừa (Diamond Sangha) tại Hawaii và là một trong những thành viên sáng lập viên của Hội Ái hữu Phật tử vì Hòa bình (Buddhist Peace Fellowship, 佛教和平友誼會). 


Cuối cùng, ông đã định cư ở Maui, Hawaii sau khi mua 19 mẫu đất phong cảnh nhiệt đới bị phá rừng trên một đồn điền dứa trước đây mà ông bắt đầu khôi phục. Ông và người vợ quá cố là nữ cư sĩ Paula Schwartz, đã khôi phục lại vùng đất, trồng hơn 2.700 cây và một loại các hệ thực vật khác. Sau đó, ông tổ chức bảo tồn hệ sinh thái thực vật được thành lập vào năm 2010, nhằm duy trì ngôi nhà của ông và rừng cọ như một nơi tĩnh lặng và tĩnh tâm, nghiên cứu và chiêm nghiệm, từ đó sẽ phục vụ cho việc truyền cảm hứng cho sự đổi mới trong nghệ thuật và khoa học.

Cư sĩ William Stanley Merwin 1
Tiểu sử Cư sĩ William Stanley Merwin
(1927-2019)

Cư sĩ WS Merwin, tên đầy đủ là William Stanley Merwin sinh ngày 30 tháng 09 năm 1927 tại thành phố New York, Hoa Kỳ, là tín hữu của Giáo hội trưởng lão, một chi nhánh thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo Kháng cách theo Thần hộc Calvin có gốc từ Quần đảo Anh quốc (sau này cải đạo trở thành vị Phật tử thuần lương), là một nhà thơ người Mỹ đã viết hơn 50 cuốn sách thể loại thơ và văn xuôi, và đã sản xuất nhiều dịch phẩm.


Giữa thế kỷ 20, trong những thập niên 1960, có rất  nhiều bất ổn trong việc các trường đại học khi sinh viên ngày càng tham gia Phong trào Quyền Công dân, Chủ nghĩa Femist Thứ hai và Phong trào chống chiến tranh.


Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam là các phong trào phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Phong trào diễn ra tại Việt Nam, Hoa Kỳ, Liên Xô và nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều cuộc biểu tình tại Hoa Kỳ đã bị đàn áp bằng bạo lực.


Tại Hoa Kỳ, khi chiến tranh Việt Nam tiếp tục leo thang, sự mất trật tự công cộng đã tăng lên và nhiều nhóm khác nhau được hình thành hoặc tham gia vào phong trào này. Các cuộc biểu tình đã thừa hưởng thanh thế từ phong trào Dân quyền, vốn tổ chức để phản đối luật phân biệt chủng tộc. Phong trào Dân quyền đã xây dựng một nền tảng lý thuyết, cơ sở để phát triển phong trào chống chiến tranh.


Các cuộc biểu tình được hâm nóng bởi sự mọc lên của nhiều tờ báo độc lập (còn được gọi là “báo chui” – trong đó có các tập Những Cánh chim Hòa bình bay về Việt Nam”, do chư tôn đức giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát động chống chiến tranh, Thiền sư Thích Nhất Hạnh làm sứ giả hòa bình, phát động toàn cầu và được sự đồng tình ủng hộ qua những bức thư trong tập sách này, trong đó có sự đồng tình ủng hộ của cựu chiến binh Hoa Kỳ) và các lễ hội, chương trình văn nghệ như Woodstock và Grateful Dead, đã thu hút những người trẻ trong việc  tìm kiếm sự đoàn kết của những người cùng thế hệ.


Trong phong trào phản chiến thập niên 1960, ông đã phát động chống vũ khí hạt nhân và vứt bỏ các quy tắc ngữ pháp, lấy cảm hứng từ “ý thức càng tăng của nó ám chỉ một sự trung thành đối với giao thức hợp lý của ngôn ngữ viết” nghề thủ công độc đáo của Cư sĩ WS Merwin được đặc trưng theo chủ đề bằng lời kể gián tiếp, không có ngắt quãng.

Cư sĩ William Stanley Merwin 2

Trong khi đó, Việt Nam và đô thị hóa làm tối tầm nhìn của ông. “Tôi/có thể nghe thấy máu chảy trên cánh đồng bằng, ông viết trong “The Child”, “The Crust”, sự sụp đổ của một loại cây là một phép ẩn dụ cho sự cắt đứt của nền văn minh:


And with the tree
Went all the lives in it
That slept in it ate in it
Met in it believed in it
 
Tạm dịch:
 
Với một loại cây,
Trong đó đã đi hết cuộc đời,
Đã ngủ trong đó, ăn trong đó;
Gặp trong nó, tin vào ở nó.

Cư sĩ WS Merwin đã hồi quang phản chiếu chính mình, nhập từ bi quán trong chiến tranh khốc liệt bởi sự tranh giành ảnh hưởng ý thức hệ của các cường quốc, nếu từ trên “phi cơ” nhìn xuống thấy “vô cùng chia rẽ và vô vọng/giống như ở sào huyệt được nhìn từ trên cao” (infinitely divided and hopeless/like a stockyard seen from above). Bài thơ “Tổng thống” (Presidents) của ông là một tiếng gọi của kẻ bất lương, bởi Tổng thống xấu hổ (the president of shame), Tổng thống dối trá” (the president of lies) và Tổng thống lòng trung thành (president of loyalty), người “mù điều khiển kẻ đui” (recommends blindness to the blind). Trong “Hoàng hôn sau cơn mưa” (Sunset After Rain), ông kết luận rằng “Bóng đêm lạnh lẽo/bởi các ngôi sao không tin với nhau” (The darkness is cold/because the stars do not believe in each other).


Vào những thập niên 1970, ông định cư cố định ở Hawai và cầu học Phật pháp, tu tập thiền Phật giáo với Thiền sư Robert Aitken (1917-2010). Năm 1983, ông kết hôn với nữ cư sĩ Paula Schwartz, trong buổi buổi lễ “Phật hóa Hôn nhân”. Nữ cư sĩ Paula Schwartz đã an nhiên về cõi Phật vào năm 2017.


Công việc của Cư sĩ WS Merwin trở nên nhàn rỗi hơn, bắt nguồn từ phong cảnh Hawaii biển, trời, trăng, mây xanh, nước biếc hữu tình, và quá khứ cá nhân của ông – nó thường bị lãng quên như thế nào, nó không bao giờ được hiểu tại thời điểm nó tồn tại, bản thân những từ ngữ là cầu nối không hoàn hảo đến mất thời gian. Trong “Bí mật”, ông lưu ý rằng Bấy cứ nơi đâu cha mẹ chúng ta đều là một thế hệ khác/ một thời đại mà chính họ gần như không thể nhớ được”.


Trong những thập niên 1980-1990, ảnh hưởng văn bản của ông bắt nguồn từ sự quan tâm đến Triết học Phật giáo và hệ sinh thái sâu sắc. Cư trú tại một vùng nông thôn của Maui, Hawaii, Hoa Kỳ, ông đã viết rất nhiều và dành riêng cho việc phục hồi các khu rừng nhiệt đới trên đảo.


Cư sĩ WS Merwin đã vinh dự nhận được nhiều dan hiệu, bao gồm Giải thưởng Pulitzer cho Thơ năm 1971 và 2009; các Giải thưởng Sách quốc gia Hoa Kỳ cho Thơ vào năm 2005, và giải nhất trong những vinh dự cao nhất ban tặng bởi các thuộc Viện các nhà thơ Hoa Kỳ và Vòng hoa Vàng tại Đại hội Thơ Ca Quốc Tế Struga Poetry Evening (Macedonia). Năm 2010, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã gọi ông là Nhà thơ Hoa Kỳ thứ 17.


Cư sĩ WS Merwin trưởng thành ở góc đường Fourth Street và New York Avennue ở Union City, New Jersey và sống ở đây cho đến năm 1936, khi gia đình ông chuyển đến thành phố Scranton, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Thuở nhỏ, Cư sĩ WS Merwin rất say mê thế giới tự nhiên, đôi khi thấy mình đang nói chuyện với các cây cổ thụ ở sau sân nhà. Ông cũng thích thú với những thứ mà ông xem là mối liên hệ với quá khứ, ví dụ như tòa nhà phía sau nhà ông từng là một nhà kho để xe ngựa, nuôi ngựa và thức ăn gia súc. Năm lên 5 tuổi, ông bắt đầu tự viết những bài Thánh ca cho cha mình (vị Mục sư trưởng).


Sự nghiệp ban đầu: 1952-1976


Sau khi tốt nghiệp vào năm 1948, Cư sĩ WS Merwin tiếp tục là một sinh viên sau đại học về ngôn ngữ Lãng mạn và cuối cùng đi qua nhiều quốc gia châu Âu, dịch thơ và làm gia sư.


Sau khi tốt nghiệp Đại học Princeton năm 1952, Cư sĩ WS Merwin kết hôn với Dorothy Jeanne Ferry và chuyển đến Tây Ban Nha. Trong thời gian ở đó, ông đã thường xuyên đến viếng thăm tại tư gia nhà của lão tiền bối tiểu thuyết gia Robert Graves (1895-1985), nhà ngôn ngữ học, nhà văn, nhà thơ người Anh, trên đảo Majorca, và ông đã nhận làm gia sư cho con trai của nhà thơ Robert Graves. Thời gian tại đây, ông đã gặp nàng Dido Milroy 15 tuổi, người mà ông đã công tác trong một vở kịch và người sau đó ông kết hôn và cùng chung sống bên nhau tại London, Vương quốc Anh.


Năm 1956, Cư sĩ WS Merwin chuyển về Boston, Hoa Kỳ để theo học tại Nhà hát của các nhà thơ. Ông trở về London, nơi ông trở thành bạn của nữ thi sĩ, nhà văn Sylvia Plath (1932-1963) và thi sĩ, nhà văn gốc Anh quốc Ted Hughes (1930-1998).


Năm 1968, Cư sĩ WS Merwin trở lại quê nhà New York, Hoa Kỳ và chia tay người vợ ở Cộng hòa Pháp. Vào cuối những thập niên 1970, ông chuyển đến Hawaii và cuối cùng ly dị với Dido Milroy. Ông kết hôn với nữ cư sĩ Paula Dunaway năm 1983.


Từ những năm 1956-1957, Cư sĩ WS Merwin là nhà viết kịch, cư trú tại Nhà hát của nhà thơ ở Cambridge, Massachusetts; ông trở thành biên tập thơ ở The Nation vào năm 1962. Bên cạnh đó là một nhà thơ sung mãn, ông là một người phiên dịch có uy tín của Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Latin và văn học Ý và thơ (bao gồm Lazarillo de Tormes và Dante ‘s Purgatorio) cũng nhue thơ từ tiếng Phạn, tiếng Yiddish, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nhật và tiếng Quechua.


Vào những thập niên 1970, ông định cư cố định ở Hawaii và tham học Phật pháp, học tu thiền với Thiền sư Robert Aitken. Ông kết hôn với người vợ thứ ba, nữ cư sĩ Paula Schwartz, trong một buổi lễ Phật giáo năm 1983. Nữ cư sĩ Paula Schwartz đã về cõi Phật vào năm 2017.


Công việc của Cư sĩ WS Merwin trở nên ít bận rộn hơn, bắt nguồn từ phong cảnh Hawaii biển gió hữu tình, thơ mộng, và quá khứ cá nhân của ông – nó thường bị lãng quên như thế nào, nó không bao giờ được hiểu tại thời điểm nó tồn tại, bản thaan những từ ngữ là cầu nối không hoàn hảo đến mất thời gian. Trong “Bí mật”, ông lưu ý rằng “Bất cứ nơi nào cha mẹ chúng ta đều là một thế hệ khác/một thời đại mà chính họ gần như không thể nhớ được”.


Trong bài thơ gửi đấng Mẹ hiền kính yêu đã từ giã trần gian, Cư sĩ William Merwin xúc cảm viết:


Cả ngày ngắm sao từ lâu
Mẹ tôi nói bây giờ tôi sẽ đi
Khi bạn ở một mình bạn sẽ ổn thôi
Cho dù bạn biết hay không bạn sẽ biết
Nhìn ngôi nhà cũ trong mưa bình minh
Tất cả những bông hoa là dạng nước
Mặt trời nhắc nhở họ qua một đám mây trắng
Chạm vào sự chắp vá trải rộng trên đồi
Màu sắc được rửa sạch của thế giới bên kia
Sống ở đó rất lâu trước khi bạn được sinh ra
Xem cách họ thức dậy mà không có câu hỏi
Mặc dù cả thế giới đang cháy.

Cư sĩ WS Merwin từ là người tuyển chọn các bài thơ của nhà thơ người Mỹ Craig Arnold (1967-2002-2009).

Cư sĩ WS Merwin được biết đến với thơ về Chiến tranh Việt Nam, và có thể được đưa vào danh sách các nhà thơ thời Chiến tranh Việt Nam, bao gồm các giới văn nghệ sĩ trí thức như Robert Bly, một thi sĩ, nhà tiểu luận, nhà hoạt động và nhà lãnh đạo của Phong trào đàn ông huyền thoại người Mỹ,  nữ thi sĩ Adrienne Rich (1929-2012), nhà tiểu luận và nữ quyền người Mỹ, nữ thi sĩ người Mỹ Denise Levertov (1923-1997), thi sĩ người Mỹ Robert Lowell (1917-1977), thi sĩ người Mỹ Allen Ginsberg (1926-1997) và thi sĩ người Mỹ Yusef Komunyakka.


Các chủ đề ban đầu của Cư sĩ WS Merwin thường được gắn liền với các chủ đề thần thoại hoặc huyền thoại, trong khi nhiều bài thơ của ông có động vật. Một tập thơ với tên The Drunk in the Furance (1960) đã đánh dấu một sự thay đổi cho Cư sĩ WS Merwin, trong đó ông bắt đầu viết theo cách tự truyện hơn.


Vào giữa thế kỷ 20, những thập niên 1960, Cư sĩ WS Merwin sống trong một căn hộ nhỏ ở Greemwich Village của thành phố New York, Hoa Kỳ.


Sách của Cư sĩ William Stanley Merwin

Sự nghiệp sau này: 1977-2019


Di cư: Những bài thơ mới và đã được chọn giành giải thưởng Sách quốc gia năm 2005 cho thơ.


Năm 1988, Cư sĩ WS Merwin viết “Folding Cliffs: A Narrtive”, một cuốn tiểu thuyết đầy tham vọng về Hawaii trong lịch sử và truyền thuyết.


The Shadow of Sirius(Góc khuất của Sao Thiên Lang), xuất bản năm 2008 bởi báo Copper Canyon Press, đã được trao giải Pulitzer cho thơ 2009. 


Vào tháng 06 năm 2010, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã trao danh hiệu cho Cư sĩ WS Merwin là Nhà thơ thứ 17 của Hoa Kỳ để kế tiếp Kay Ryan, một nhà thơ và nhà giáo dục người Mỹ. Ông là chủ đề của bộ phim tài liệu năm 2014 Even Though the Whole World Is Burning” (Ngay cả khi cả thế giới đang bùng cháy).  Cư sĩ WS Merwin xuất hiện trong bộ phim tài liệu PBS The Budha”, phát hành năm 2010. Ông đã chuyển đến Hawaii để tu học thiền Phật giáo với Thiền sư Rober Aitken vào năm 1976.


Năm 2010, ông cùng với phu nhân là nữ cư sĩ Paula Schwartz đồng sáng lập The Merwin Conservancy, để bảo vệ và phát triển những gì họ đã làm cho những người đến sau họ. 


The Merwin Conservancy, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên bảo quản ngôi nhà của nhà thơ được xây dựng bằng tay và nhà đất được phục hồi 18 mẫu ở Haiku, Maui, đã được chuyển đổi từ một “vùng đất nông nghiệp” thành một “Ark Arka” cho những cây cọ quý hiếm, một trong những bộ sưu tập lớn nhất và đa dạng sinh học nhất của cây cọ trên thế giới.


Bảo tồn, và khu vườn mà The Merwin Conservancy thành lập, đã nhận được sự khen ngợi của quốc tế - Các giải thưởng và sự công nhận và một danh mục các nguồn lực. Tuy nhiên, ai đó đọc về cuộc sống của Cư sĩ WS Merwin ngày nay, trong thời điểm thảm họa khí hậu sắp xảy ra, có thể đặt câu hỏi không thể diễn tả được: liệu có điều gì thực sự quan trọng không? Trong một thế giới mà chúng ta đang mất đi ba mươi khu rừng trong bóng đá mỗi phút, toàn bộ Khu bảo tồn Merwin cứ sau hai mươi giây, những khu rừng có kích thước bằng cả năm hòn đảo Hawaii tích lũy cứ sau bốn tháng. Chúng ta có ích lợi gì cho mười chín mẫu Anh hay vài nghìn cây?


Tập thơ cuối cùng của Cư sĩ WS Merwin Garden Times Copper Canyon Press, 2016), được sáng tác trong quá trình khó khăn bởi thị lực rất kém. Khi ông không còn có nhìn thấy đủ để viết, ông đã viết những vần thơ cho phu nhân (nữ cư sĩ Paula Dunaway). Đây là cuốn sách về sự lão hóa và thực nghiệm cuộc sống của đời người trong hiện tại. Viết về Thời gian làm vườn trên tờ New York Times, nhà văn và biên tập viên người Mỹ Jeff Gordinier gợi ý rằng “Công việc của Cư sĩ WS Merwin giống như một phần của sự liên tục vượt thời gian, một dòng sông trải dài từ Han Shan và Lipo”.


Vào năm 2017, Copper Canyon Press đã xuất bản "The Essential WS Merwin”, một cuốn sách theo dõi di sản 7 thập kỷ thơ của Cư sĩ WS Merwin, với các lựa chọn từ tác phẩm đầu tay năm 1952 của ông, “A Mask for Janus”, đến “Garden Time 2016”, cũng như tuyển tập các bản dịch và tường thuật văn xuôi ít được biết đến. Các bài báo văn học của Cư sĩ WS Merwin được tổ chức tại Thư viện Sách & Bản thảo hiếm tại Đại học Illinois tại Urbana-Champaign (còn gọi là Đại học Illinois hay UIUC). Bộ sưu tập bao gồm khoảng 5.500 mục lưu trữ và 450 cuốn sách in.


Cuối đời, Cư sĩ WS Merwin sống trên vùng đất là một phần của đồn điền dứa, ở bờ biển phía đông bắc Maui, Hawaii, Hoa Kỳ. Nhân duyên sống trên trần gian đã hết, tứ đại đến hồi suy yếu dần, nhưng tinh thần vẫn minh mẫn, Cư sĩ WS Merwin đã an nhiên thả hồn theo mây gió về với cõi Phật vào hôm thứ Sáu, ngày 15 tháng 03 năm 2019, trong giấc ngủ thiên thu tại tư gia, theo báo cáo của nhà xuất bản Copper Canyon Press.


Các giải thưởng


Cư sĩ WS Merwin được trao hai giải Pulitzer cho thơ vào các năm 1971 và 2009, giải PEN cho thơ dịch năm 1969, giải Bollingen năm 1979, giải Tanning và giải thơ Lenore Marshall năm 1994, giải thơ Ruth Lilly năm 1998, giải thành tựu trọn đời của giải văn chương Lannan năm 2004, giải Sách Quốc gia Mỹ cho thơ năm 2005, giải Rebekah Johnson Bobbitt năm 2006, giải văn chương quốc tế Zbigniew Herbert năm 2013, và giải dịch thuật Harold Morton Landon năm 2014. Ông được bổ nhiệm, cùng Rita Dove và Louise Glück, làm Cố vấn Đặc biệt về Thơ cho Thư viện Quốc hội Mỹ nhiệm kỳ 1999–2000, và làm Poet Laureate nhiệm kỳ 2010–2011. Cư sĩ WS Merwin được xem là một trong những người có đóng góp đáng kể nhất cho nền thơ ca Mỹ trong cả thế kỷ 20 và 21.


Bộ sưu tập Thi, Phú:


1952: A Mask for Janus, New Haven, Connecticut: Yale University Press; awarded the Yale Younger Poets Prize, 1952 (reprinted as part of The First Four Books of Poems, 1975)


1954: The Dancing Bears, New Haven, Connecticut: Yale University Press (reprinted as part of The First Four Books of Poems, 1975)


1956: Green with Beasts, New York: Knopf (reprinted as part of The First Four Books of Poems, 1975)


1960: The Drunk in the Furnace, New York: Macmillan (reprinted as part of The First Four Books of Poems, 1975)


1963: The Moving Target, New York: Atheneum


1966: Collected Poems, New York: Atheneum


1969: Animae, San Francisco: Kayak


1970: The Carrier of Ladders, New York: Atheneum - winner of the Pulitzer Prize


1970: Signs, illustrated by A. D. Moore; Iowa City, Iowa: Stone Wall Press


1973: Writings to an Unfinished Accompaniment, New York: Atheneum


1975: The First Four Books of Poems, containing A Mask for Janus, The Dancing Bears, Green with Beasts, and The Drunk in the Furnace, New York: Atheneum; (reprinted in 2000, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press)


1977: The Compass Flower, New York: Atheneum


1978: Feathers From the Hill, Iowa City, Iowa: Windhover


1982: Finding the Islands, San Francisco: North Point Press


1983: Opening the Hand, New York: Atheneum


1988: The Rain in the Trees, New York: Knopf


1988: Selected Poems, New York: Atheneum


1993: Travels: Poems, New York: Knopf - winner of the 1993 Lenore Marshall Poetry Prize


1996: The Vixen: Poems, New York: Knopf


1997: Flower and Hand: Poems, 1977–1983 Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press


1998: The Folding Cliffs: A Narrative, New York "novel-in-verse": Knopf


1999: The River Sound: Poems, New York: Knopf


2001: The Pupil, New York: Knopf


2005: Migration: New and Selected Poems, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press - winner of the National Book Award for Poetry


2005: Present Company, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press


2008: The Shadow of Sirius, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press - winner of the Pulitzer Prize [2]; 2009: Tarset, Northumberland, UK: Bloodaxe Books


2014: The Moon Before Morning, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press; Hexham, Northumberland, UK: Bloodaxe Books


2016: Garden Time, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press; Hexham, Northumberland, UK: Bloodaxe Books


2017: The Essential W. S. Merwin, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press


Thể loại văn xuôi:


1970: The Miner's Pale Children, New York: Atheneum (reprinted in 1994, New York: Holt)


1977: Houses and Travellers, New York: Atheneum (reprinted in 1994, New York: Holt)


2002: The Mays of Ventadorn, National Geographic Directions Series; Washington: National Geographic


2004: The Ends of the Earth, essays, Washington: Shoemaker & Hoard


Vở kịch:


1956: Darkling Child (with Dido Milroy), produced that year


1957: Favor Island, produced this year at Poets' Theatre in Cambridge, Massachusetts (broadcast in 1958 by Third Programme, British Broadcasting Corporation)


1961: The Gilded West, produced this year at Belgrade Theatre, Coventry, England


Tác phẩm dịch thuật:


1959: The Poem of the Cid, London: Dent (American edition, 1962, New York: New American Library)


1960: The Satires of Persius, Bloomington, Indiana: Indiana University Press


1961: Some Spanish Ballads, London: Abelard (American edition: Spanish Ballads, 1961, New York: Doubleday Anchor)


1962: The Life of Lazarillo de Tormes: His Fortunes and Adversities, a Spanish novella; New York: Doubleday Anchor


1963: The Song of Roland


1969: Selected Translations, 1948–1968, New York: Atheneum - winner of the PEN Translation Prize


1969: Twenty Love Poems and a Song of Despair, poems by Pablo Neruda; London: Jonathan Cape (reprinted in 2004 with an introduction by Christina Garcia, New York: Penguin Books)


1969: Voices: Selected Writings of Antonio Porchia, Chicago: Follett (reprinted in 1988 and 2003, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press)


1969: Transparence of the World, poems by Jean Follain, New York: Atheneum (reprinted in 2003, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press)


1971: "Eight Quechua Poems", The Hudson Review


1974: Osip Mandelstam: Selected Poems (with Clarence Brown), New York: Oxford University Press (reprinted in 2004 as The Selected Poems of Osip Mandelstam, New York: The New York Review of Books)


1977: Sanskrit Love Poetry (with J. Moussaieff Masson), New York: Columbia University Press (published in 1981 as Peacock's Egg: Love Poems from Ancient India, San Francisco: North Point Press)


1977: Vertical Poetry, poems by Roberto Juarroz; San Francisco: Kayak (reprinted in 1988; San Francisco: North Point Press)


1978: Euripides' Iphigeneia at Aulis (with George E. Dimock Jr.), New York: Oxford University Press


1979: Selected Translations, 1968–1978, New York: Atheneum


1981: Robert the Devil, an anonymous French play; with an introduction by the translator; Iowa City, Iowa: Windhover


1989: Sun at Midnight, poems by Musō Soseki (with Soiku Shigematsu)


2000: Purgatorio from The Divine Comedy of Dante; New York: Knopf


2002: Gawain and the Green Knight, a New Verse Translation, New York: Knopf; 2003: Tarset, Northumberland, UK: Bloodaxe Books


2013: Sun At Midnight, poems by Muso Soseki, Port Townsend, Washington: Copper Canyon Press (with Soiku Shigematsu) (updated and reissued)


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: NBC News)

 
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2017(Xem: 7622)
Lịch sử Phật Giáo qua tem bưu chính, Trần Thanh Lý biên soạn
08/06/2017(Xem: 6548)
Ngũ Tổ Tự là đạo tràng hoằng pháp của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, là một trong những ngôi đại già lam quan trọng của Phật Giáo thuộc địa khu Hán tộc. Chùa được kiến lập vào năm 654 (Vĩnh Huy [永徽] 5) nhà Đường. Sau khi Hoằng Nhẫn khai sáng đạo tràng tại Đông Sơn (東山), gây chấn động toàn quốc, môn đồ thường trú đương thời có khi lên đến cả ngàn người. Từ khi Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705) tức vị, phật giáo được xem trọng hơn.
20/04/2017(Xem: 7594)
Với tôi, tiếng Nhật là ngoại ngữ thứ 3 mà tôi phải học (sau tiếng Anh và tiếng Pháp) vào năm 1972 khi tôi mới đến Nhật. Lúc ấy hầu như tôi không biết một tiếng Nhật nào cả. Là một Tăng Sĩ của Phật Giáo Việt Nam, năm 1971 sau khi học xong Trung Học Đệ Nhị cấp tại Việt Nam, vì thích đi du học tại Nhật Bản nên tôi liền đến Tòa Đại Sứ của Nhật tại miền Nam Việt Nam để tìm hiểu và nộp đơn xin du học. Kết quả là vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 tôi đã đến Nhật.
26/12/2016(Xem: 5909)
Đạo Phật đang phát triển nhanh chóng tại Úc Châu, nơi các Hội đồng Phật giáo không kịp đào tạo các giáo viên thiện nguyện cho các trường công để đáp ứng làn sóng học sinh muốn tìm học về tôn giáo hòa bình này. Nhiều trường công lập Úc châu có tiết học dài 30 phút về tôn giáo, trên nguyên tắc không phải là truyền giáo nhưng là
26/12/2016(Xem: 8799)
Châu Phi cho đến bây giờ vẫn là lục địa đen nghèo đói, bệnh tật và lạc hậu trong con mắt thế giới. Nhưng có một góc khác của châu Phi ít có người biết đến Phật giáo ở Châu Phi. Phật pháp đã được ươm mầm trên mảnh đất khô cằn Châu Phi, người dân bắt đầu biết đến Phật, Pháp và Tăng, tuy nhiên có những chuyện Phật bi hài chỉ có ở lục địa đen mà không thể có ở những xứ khác.
09/11/2016(Xem: 9474)
Có khoảng 250 Đại Biểu chính thức của Hội Đồng Điều Hành Tăng Gìa Thế Giới gồm 36 Quốc Gia về Đài Bắc, Đài Loan tham dự Hội Nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 vừa qua. Hòa Thượng Thích Như Điển là thành viên của Ủy Ban Nghiên cứu và phát triển Phật Giáo trên thế giới cùng với đông đảo chư Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam cũng đã có mặt trong những ngày trọng đại nầy.
09/06/2016(Xem: 9476)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 31970)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
01/05/2016(Xem: 5833)
Tỳ Kheo Ni Thubten Chodron trở thành vị nữ tu sĩ Phật Giáo kể từ năm 1977. Lớn lên tại Los Angeles, ni trưởng tốt nghiệp với bằng danh dự trong ngành lịch sử từ Đại Học UCLA và tốt nghiệp ngành giáo dục tại Đại Học USC. Sau nhiều năm nghiên cứu và dạy Phật Học tại Châu Á, Châu Âu, và Hoa Kỳ, ni trưởng trở thành người khai sơn và trú trì Tu Viện Sravasti Abbey tại Tiểu Bang Washington
27/12/2015(Xem: 5213)
Thiên Đồng Thiền Tự (天童禅寺) nằm tại làng Thiên Đồng ở dưới chân núi Thái Bạch của Ngân huyện, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang và được gọi là "Đông Nam Phật Quốc-東南佛國" hay “Ninh Ba Thiên Đồng Thiền Tự Pháp Vân Tuệ Nhật Thiên Phật Thiên Tăng- 寧波天童禪寺法雲慧日千佛千僧” vì là một trong năm Tòng lâm lớn nhất Trung Quốc. Ngôi Già lam Cổ Tự được kiến tạo vào đầu thế kỷ thứ IV, đời Tây Tấn năm Vĩnh Khang Nguyên (300), ban đầu chỉ là một Thảo am trên diện tích rất nhỏ nhưng theo thời gian đã lên đến 45 nghìn mét vuông, có đến khoảng 20 quần thể kiến trúc cổ như Thiên Vương điện, Đại Hùng Bảo điện, Thiên Phật các, Ngự Thư lâu, Hồi Quang lâu, Phản Minh lâu, Chung lâu, Pháp đường, Lục Thảo đường, Giới đường, La Hán đường . . . Điện đường, Lầu, Gác, Phòng liêu có đến 30 tòa, gồm 999 gian điện thất rất quy mô hùng vĩ. Hiện còn 730 gian, diện tích 7.640.000 mét vuông, diện tích xây dựng 28.800 mét vuông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]