Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kiến tạo một Ngôi chùa trong Cuộc sống Người dân Kalmyks, Moscow

13/01/202213:22(Xem: 3138)
Kiến tạo một Ngôi chùa trong Cuộc sống Người dân Kalmyks, Moscow

Kiến tạo một Ngôi chùa trong Cuộc sống
Người dân Kalmyks, Moscow
 (Building a temple inside: Life for the Kalmyks in Moscow)

Moscow chưa bao giờ thiếu vắng Giáo đường. Trước cuộc Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, thậm chí còn có một biểu đạt đặc biệt, "bốn mươi bốn", được sử dụng để miêu tả số lượng Giáo đường trong thành phố (nghĩa là 40 nhân 40, tức là 1.600, hoặc chỉ "rất nhiều").


Ngày nay, Moscow có Giáo đường Chính thống giáo Nga, Công giáo La Mã, Anh giáo và Cộng đồng các Giáo hội Luther, cũng như các nhà thờ Hồi giáo và Hội đường Do Thái giáo. Hầu hết tất cả người Muscovite và du khách thập phương đến thành phố có thể nhìn thấy nơi thờ phụng cho riêng mình, ngoại trừ các Phật tử. Các thành viên tôn giáo này, một trong ba tín ngưỡng chính trên thế giới, chưa có một nơi thờ phụng ở Moscow.

Kiến tạo một Ngôi chùa


Cư sĩ Ayuka, 25 tuổi, một công dân Kalmyk. Vào năm 2006, anh từ thủ đô Elista, Cộng hòa Kalmykia, quốc gia Phật giáo duy nhất ở châu Âu đến Moscow. 


Mặc dù tại Moscow Cư sĩ Ayuka chưa tìm thấy một ngôi tự viện Phật giáo nào, anh vẫn tiếp tục 'xây dựng một ngôi chùa trong tâm của mình' và tự mình nghiên cứu tu học Phật pháp. Trong quá trình này, anh Ayuka cũng đã thu hút được một số thân hữu bạn bè ở Moscow cũng quan tâm đến việc tu học Phật pháp. 


Cộng hòa Kalmykia là một quốc gia tự trị nằm ở phía Nam Liên bang Nga, khu vực rìa Đông của châu Âu. Tuy nhiên, đã có lúc điều này không như thế: Cộng hòa Kalmykia thuộc Nga là lãnh thổ duy nhất ở châu Âu mà Phật giáo là tôn giáo chính và dân số chủ yếu là người gốc châu Á. Về mặt lịch sử, họ là hậu duệ của các chiến binh Mông Cổ dưới trướng Thành Cát Tư Hãn, đến định cư tại khu vực Hạ Volga từ thế kỷ 13 và lập nên hãn quốc Kalmykia là một phần của Kim Trướng hãn quốc. Vào nửa đầu thế kỷ 17, các hoàng tử địa phương đã lập lời thệ nguyện trung thành với Sa hoàng Nga và định cư tại các thảo nguyên của vùng hạ Volga. 


Sau cuộc Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, một Vùng thảo nguyên của người dân Kalmyk được hình thành. Mười tám năm sau, đã được chuyển đổi thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Kalmyk (tiếng Nga: Калмыцкая Автономная Советская Социалистическая республика, tiếng Kalmyk: Хальмг Автономн Советск Социалистическ Республик) là một nước Cộng hòa tự trị của Liên bang Xô viết. Trong Thế chiến Thứ 2, Kalmyk sống sót sau sự chiếm đóng của của Đức Quốc xã, tiếp theo là sự trả đủa của của Liên Xô và bị trục xuất đến Siberia dưới thời Stalin Bạo Chúa Khát Máu - một cuộc lưu đày kéo dài 13 năm. Người dân Kalmyk chỉ được phép hồi hương vào năm 1957.


Sau sự sụp đổ, tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô, Kalmykia vẫn là một nước cộng hòa tự trị trực thuộc Nga. Vào những năm 2000, Kalmyk cùng với nhiều cư dân khác ở miền nam đất nước không phát triển lắm về kinh tế, bắt đầu họ chuyển đến Moscow. Theo thống kê chính thức, có khoảng 3.000 người Kalmyk dân tộc thiểu số hiện đang sống tại Moscow. 


Người dân Kalmyk đã gìn giữ ngôn ngữ của họ, ẩm thực và tôn giáo của họ - truyền thống Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông Tây Tạng thuộc phái Gelugpa. Đối với sinh kế truyền thống của họ - du mục, chăn nuôi gia súc - những sinh kế đó phải bị bỏ lại trên thảo nguyên Kalmyk. Ở Moscow, các bạn có thể gặp người dân Kalmyk ở mọi tầng lớp xã hội. Một trong số người dân của họ, Cư sĩ Kirsan Ilyumzhinov, cựu Tổng thống nước cộng hòa tự trị Kalmykia, thậm chí còn là Chủ tịch Liên đoàn Cờ vua Thế giới (FIDE).


Cư sĩ Ayuka cùng với cha mẹ chuyển đến Moscow. Anh và người anh trai đã đến thủ đô Moscow để vào đại học, chuyên khoa Luật học và Phân tích kinh tế. Cha mẹ của Cư sĩ Ayuka đã bỏ công việc và nhà cửa của học ở Kalmykia để chăm sóc và theo dõi việc học tập của con cái. 


Họ chia sẻ rằng, cuối cùng nơi đây chúng tôi cũng đã quen và ổn định với với cuộc sống. 


Cư sĩ Ayuka đến từ Elista, so với Moscow không phải là một thành phố lớn; nó là rất nhỏ. Lúc đầu, Cư sĩ Ayuka thấy ở Moscow có nhiều điều đáng ngạc nhiên, nhưng anh đã nhanh chóng làm quen với nó: "Đầu tiên, chúng tôi chuyển từ một căn phòng thuê hoặc thuê từ căn hộ này sang một căn hộ khác. Cha mẹ chúng tôi đã làm việc rất chăm chỉ để cuộc sống của chúng tôi ở đây thoải mái. Những người bạn đại học họ đã giúp chúng tôi tìm hiểu về thành phố, đã cho chúng tôi nhìn thấy xung quanh. Cuối cùng, chúng tôi đã quen và ổn định cuộc sống. Thông qua thân hữu bạn bè, tôi và anh trai tôi đã tìm được việc làm tại một công ty phát hành sách, nơi chúng tôi làm việc với tư cách là nhà phân phối."


Tại Moscow, Cư sĩ Ayuka có những người bạn thuộc các nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, bao gồm cả các Phật tử từ các vùng khác của Nga: "Tôi rất muốn tìm hiểu xem các Phật tử sống như thế nào ở các vùng khác ở Nga, cách họ nghiên cứu triết học Phật giáo như thế nào." 


Phật giáo Nga có những đặc điểm lịch sử riêng: "Trước thời Liên Xô, Kalmyk được phép tham gia các nghi lễ đạo Phật, tụng kinh, trì chân ngôn mật chú, cầu nguyện, tọa thiền và đi thiền hành xung quanh ngôi chùa) nhưng họ không được dạy triết lý của của Phật giáo. Các hạn chế đã được 'đưa ra' vì sợ làm sai lệch kinh điển Phật giáo. 


Tuy nhiên, sau sự sụp đổ, tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô, người ta quyết định truyền lại giáo pháp cho tất cả những ai muốn học. Có rất nhiều ngôi già lam tự viện Phật giáo được xây dựng ở Kalmykia và các Phật tử Nga có cơ hội phát triển tôn giáo."


"Đạo Phật, trước hết và quan trọng nhất là đạo đức từ bi bất bạo động, một triết lý về sự phụ thuộc lẫn nhau."


Những thân hữu bạn bè của Cư sĩ Ayuka rất quan tâm đến đạo Phật. Tuy nhiên, đánh giá những thắc mắc mà anh ta thường được hỏi, ít người nhận thức được thực sự đạo Phật là như thế nào. Khi còn ở đại học, chỉ có 5 sinh viên Kamyk và rất nhiều sinh viên Nga. Cư sĩ Ayuka đã kiên nhẫn giải thích bản chất của đạo Phật cho tất cả những người quan tâm lắng nghe: "Đạo Phật, trước hết và quan trọng nhất là đạo đức từ bi bất bạo động, một triết lý về sự phụ thuộc lẫn nhau. Tất cả chúng ta đều tác động lẫn nhau thông qua các quy luật của cộng nghiệp, sự khác biệt của chúng ta là thứ yếu. Tất cả mọi người đều muốn an lạc hạnh phúc và không ai muốn bất hạnh đau khổ, ở chỗ tất cả chúng ta đều đoàn kết."


 Thậm chí không có một cơ sở tự viện Phật giáo nào để đến, Cư sĩ Ayuka tiếp tục tham khảo các truyền thống Phật giáo. Cùng với những thân hữu bạn bè người Buryat, anh tổ chức các ngày lễ Phật giáo, tụng kinh điển, trì chân ngôn mật chú và thiền định. 


Bản chất của cuộc hành trình Phật giáo là làm việc cho bản thân, công việc là luôn luôn phấn đấu để trở thành một người hoàn hảo hơn và tử tế hơn. 


Kiến tạo một Ngôi chùa 6Kiến tạo một Ngôi chùa 5Kiến tạo một Ngôi chùa 4Kiến tạo một Ngôi chùa 3Kiến tạo một Ngôi chùa 2

Vào mùa thu năm 2012, lần đầu tiên, Cư sĩ Ayuka nghe nói về Trung tâm Phật giáo Moscow là một phần của Hiệp hội Phật giáo Kim Cương thừa (Diamond Way Buddhism), thuộc truyền thống Phật giáo Karma Kagyu, trong đó quy tụ khoảng 100 cộng đồng Phật giáo trên cả nước. Dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Phật giáo Kim Cương thừa trong các bài giảng, các khóa học, hội thảo về thiền, hội họa, điêu khắc và hàng thủ công truyền thống, triển lãm nghệ thuật, lễ hội văn hóa của các quốc gia Phật giáo và vùng lãnh thổ, chiếu phim, ngày mở, bàn tròn, hội nghị khoa học. Kể từ đó, Cư sĩ Ayuka thường xuyên đến đây và cùng với Phật tử Moscow, tham gia các nghi lễ truyền thống. Anh nói: "Các nghi lễ của chúng tôi mỗi tháng hai lần. Ngoài ra, tôi còn tham dự các chu kỳ Pháp hội được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu."


Vào mùa hè năm 2013, Cư sĩ Ayuka đã dành thời gian cho một khóa tu học Phật pháp tại Hồ Baikal, hồ nước ngọt có một không hai trên thế giới nằm ở phía Đông Siberia (LB Nga). Khóa tu học mở cửa cho tất cả mọi người và đã miễn phí, tất cả những gì bạn phải làm là góp quỹ và lấy một số tiền cho phí sinh hoạt. Đó là một khoảng tiền nhỏ để trả cho một trải nghiệm tinh thần nghiêm túc. Cư sĩ Ayuka chia sẻ: "Mục tiêu chính của khóa tu học Phật pháp tại Hồ Baikal là hoàn thiện bản thân, việc tu học Phật pháp là luôn phấn đấu để trở thành một người hoàn hảo hơn và tử tế hơn. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để chia sẻ việc lợi ích này. Sau các buổi pháp thoại, mọi người dành thời gian cho các thực hành cá nhân và thiền định."


Trong suốt 8 năm ở Moscow, Cư sĩ Ayuka chưa bao giờ đến một Giáo đường Chính thống giáo Nga, thậm chí không phải vì tò mò. 


Nhưng Cư sĩ Ayuka đã gặp khá nhiều tín đồ Chính thống giáo Nga, trong số những người thường đến chùa nghe giảng về triết lý đạo Phật. Theo Cư sĩ Ayuka, ngay cả một người sùng đạo sâu sắc cũng có thể tồn tại mà không cần đến nơi thờ cúng nếu anh ta không có ngôi chùa trong tâm để cúng dường phụng sự Tam bảo (Phật, Pháp và Tăng), trong khi điều ngược lại không phải lúc nào cũng đúng. 


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Russia Beyond The Headlines)

 
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5564)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3844)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28376)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5715)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8469)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4831)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3643)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7320)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4018)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5219)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567