Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khai quật Bảo tháp Phật giáo vào Thời Vương triều Mughal tại Ban Faqiran

08/01/202217:55(Xem: 6246)
Khai quật Bảo tháp Phật giáo vào Thời Vương triều Mughal tại Ban Faqiran

Bảo tháp Phật giáo tại Ban Faqiran 2
Khai quật Bảo tháp Phật giáo
vào Thời Vương triều Mughal tại Ban Faqiran


Taxila: Trong một cuộc khai quật một Bảo tháp Phật giáo tại Ban Faqiran, nhà Khảo cổ học của Bộ Liên bang Khảo cổ học đã phát hiện đồ cổ quý hiếm, trong đó có một đồng xu bằng đồng từ thời Vương triều Mughal, một đế quốc Hồi giáo (chịu ảnh hưởng từ nền văn hoá Ba Tư) ở Tiểu lục địa Ấn Độ đã ra đời vào năm 1526, nắm quyền kiểm soát trên phần lớn tiểu lục địa trong các thế kỷ 17 và 18, và cáo chung vào giữa thế kỷ 19.


Đã khai quật được một cầu thang dài được phát hiện ở Gandhāra, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và Taxila, thành phố Phật giáo cổ đại và một địa điểm khảo cổ quan trọng ở hạt Rawalpindi, tỉnh Punjab, Pakistan.


Những khám phá mới có nghĩa là viết lại lịch sử của thủ đô Liên bang.


Tiến sĩ Mohammad Arif, Tổng Giám đốc Bộ Liên bang Khảo cổ học tiết lộ rằng: “Cuộc điều tra Khảo cổ học và Tài liệu được xem là điều kiện tiên quyết để Khảo cổ Khai quật, Bảo tồn và Bảo vệ Di tích Lịch sử."


Trong tiểu lục địa, Alexander Cunningham là nhà Khảo cổ học đầu tiên, người thực hiện cuộc Khảo sát của cácc địa điểm Di tích Phật giáo.


Là nguồn cảm hứng từ các nhà Khảo nghiệp dư đầu tiên như các sĩ quan quân đội Ý Jean-Baptiste Ventura, Cunningham Khai quật nhiều địa điểm, Bảo tháp trên khắp chiều dài và chiều rộng của tiểu lục địa, những nỗ lực của Ông cuối cùng đã mang hoa trái khi Nghiên cứu Khảo cổ Ấn Độ (ASI) được thành lập vào năm 1861.


Do sự hạn chế về tài chính, ASI đã ngưng hoạt động từ những năm 1865-1871, sau đó đã được hồi sinh vào năm 1871 như là một bộ phận chính thức.


Sau sự sáng tạo của Chính phủ Pakistan, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng của Pakistan đã tiến hành một cuộc Khảo sát Khảo cổ học quy mô lớn tại các nơi Sindh, Khyber-Pakhtunkhwa, Punjab, Balochistan, và đưa ra ánh sáng một số giai đoạn của Lịch sử vẻ vang của các vùng Thánh địa Phật giáo này.


Phần còn lại của một nhà thờ Hồi giáo ở Islamabad, nằm khoảng 200 mét về phía Tây của Bảo tháp Phật giáo, - bên trong Islamabad Capital Territory và được làm bằng vôi và đá kanjur.


Bảo tháp Phật giáo tại Ban Faqiran 1

Nhà thờ Hồi giáo được kiến tạo từ thời Vương triều Ghaznavid (977-1186), triều đại có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị ở Khorāsān (ở đông bắc Iran), Afghanistan và bắc Ấn Độ. Tuy nhiên, các cuộc khai quật gần đây cho biết; nó được xây dựng trong thời đại Mughal, đồng xu bằng đồng đã khai quật cũng từ thời đại Mughal.


Các đồng tiền có thể thuộc về Shah Alam, một trong những người con trai của Hoàng đế Aurangzeb (1618 – 1707).


Một trong những cầu thang trong các Bảo tháp Phật giáo là chiếc cầu thang dài nhất ở Gandhāra và thung lũng Taxila.


Việc khai quật sơ bộ trực tiếp nhìn thấy các di vật khảo cổ của cấu trúc Phật giáo khổng lồ, các biện pháp 10.15 26 mét. Các cấu trúc của Bảo tháp Phật giáo được làm bằng vật liệu vôi và đá kanjur, đá bán ốp lát, tả nền khoảng giữa thế kỷ thứ 2 và thế kỷ thứ 4.


Cấu trúc Bảo tháp Phật giáo ban đầu được phủ một lớp vôi vữa, đá kanjur chiết xuất từ các hang động Shah Allah Ditta, Pakistan nằm tại chân đồi phía tây nam Islamabad, là nơi chứa đựng những di tích Phật giáo cổ đại, nằm cạnh đền thờ và lăng mộ của Shah Allah Ditta. Các dấu tích tại hang động cho thấy Shah Allah Ditta là nơi tu tập thiền định của chư tôn đức tăng già Phật giáo trước khi trở thành nơi trú ẩn của tín đồ Hindu giáo. Đây là hang động không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn là di sản quý giá của thành phố Islamabad đang ngày càng hiện đại hóa.


Kiến trúc của Bảo tháp Phật giáo nơi đây tương tựa trong việc thực hiện tái thiết Bảo tháp Phật giáo Dharmarjika ở Taxila vào thế kỷ thứ 3, cũng như các Bảo tháp Phật giáo Bhamala và Badalpur.


Dự án khai quật đầu tiên được tiến hành bởi các bộ phận trong Islamabad từ khi thành lập. Kinh phí cho việc khai quật và bảo tồn được cung cấp bởi Quỹ Quốc gia của Pakistan cho di sản văn hóa trong tháng 04 năm 2015, việc khai quật khởi xướng vào tháng 05 năm 2015. Dự án này với tổng chi phí khoảng RS2 triệu (US $ 19,100).


Cuộc khai quật được sự dẫn dắt bởi một nhà Khảo cổ cấp cao từ các bộ phận trước đây, và đã tiến hành khai quật thành công tại các nơi Jinnan Wali Dheri, Badalpur, Taxila, Pir Mankral, Haripur, Zar Dheri trong Mansehra, Harrapa, Punjab và Nowsharo trong Balochistan.


Abdul Ghafoor Lone, người đứng đầu cuộc khai quật chia sẻ với báo giới rằng: “Phần còn lại cấu trúc Bảo tháp Phật giáo, 11 đồng xu bằng đồng cổ quý hiếm từ Ấn Độ-Hy Lạp, thời kỳ Kushan và Mughal được cũng phát hiện ra.


Bốn đầu mũi tên làm bằng sắt và một mẩu chậu đất nung cũng đã được khai quật.


Việc khai quật đã được tiếp xúc với kho tàng văn hóa tiềm ẩn, và đã xác nhận các giả thuyết của những nhà Khảo cổ cấp cao khác nhau, liên quan đến Di sản Văn hóa Islamabad, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào Ban Faqiran.


Những khám phá gần đây đã mở rộng thêm Văn hóa Lịch sử của Islamabad, trước đó vào thế kỷ 15 với những khám phá của Fort Pharwala và Rawat Fort, cũng như thời hậu Mughal Saidpur Village.


Một cuộc điều tra chi tiết có thể giúp tiết kiệm Di sản Văn hóa quý hiếm của thành phố và môi trường. Mục đích của Dự án này đã được gửi đến các cơ quan liên quan để chờ sự chấp thuận.


Kiến trúc Mughal tạo ra một phong cách đổi mới tổng hợp những yếu tố từ Ấn Độ, Timur, Ba Tư và thậm chí Âu Châu. Trong số Hoàng đế Mughal, Shah Jahan là người bảo trợ kiến trúc Mughal nhiều nhất. Shah Jahan hay Vua của Thiên hạ, biểu lộ sự sắc bén và trí nhớ tốt từ nhỏ. Sau khi được đăng ngôi kế vị cha là Jahangir vào năm 1628, ông tự đặt tên cho mình là Bá vương của sự Tiếp hợp Tốt lành, tự hào về di sản Timur của mình. Ông cũng mang danh hiệu là Sao băng của Đức tin, vì ông là người rất sùng đạo. Shah Jahan trung thành thăm viếng mộ của vị thánh Sufi Mu’in al-Din Chishti ở Ajmer, Ấn Độ qua những thăng trầm cho đến cuối thời gian trị vì.


Vì ông trị quốc bằng công lý, người dân tôn kính Shah Jahan như một thánh vương. Ông luôn luôn được miêu tả với hào quang bao quanh gương mặt đôi khi với những thiên thần nhỏ trên đầu nữa. Dưới chân ông, sư tử và cừu nằm bên nhau như dấu hiệu của hòa bình.


Thật vậy, dưới thời trị vì của ông, đế chế vui hưởng sự thịnh vượng và ổn định nhiều nhất. Dưới thời Shah Jahan, kiến trúc Mughal đạt đỉnh cao cổ điển của nó. Phong cách kiến trúc của thời kỳ này cho thấy sự đối xứng, đồng dạng về hình dáng, hàng cột trụ lan can, mái khung vòm và chi tiết công phu. Hầu hết đều biểu trưng bởi cẩm thạch trắng nạm đá. Công trình xây cất nổi tiếng nhất của Shah Jahan là Taj Mahal xinh đẹp mà vẫn được xem là một kỳ quan về kiến trúc ngày nay."


Clip video

Buddhist Stupa at Margalla Hills Top | Ban Faqiran Stupa, Islamabad

https://www.youtube.com/watch?v=nTxXwP82OY4


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: dawn.com/news)

 
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5524)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3812)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28178)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5636)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8342)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4786)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3607)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7232)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3944)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5150)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567