Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thanh triều Vị Anh minh Hoàng đế Kiến tính Ngộ đạo

08/01/202217:38(Xem: 3341)
Thanh triều Vị Anh minh Hoàng đế Kiến tính Ngộ đạo

Thanh triều Vị Anh minh Hoàng đế Kiến tính Ngộ đạo 2
Thanh triều Vị Anh minh Hoàng đế Kiến tính Ngộ đạo


Ung Chính lên ngôi lấy hiệu "Thuận Trị Hoàng đế, 順治皇帝" từ nhỏ đã thích đọc kinh sách Phật giáo, quảng giao tăng chúng, tinh thông Phật lý. Vua học thiền với Quốc sư Chương Gia, được hướng dẫn Thiền tọa liên tục trong hai ngày, đương thời Quốc sư Chương Gia (章嘉國師) khen ngợi vua có Chủng Tính Tối Thượng Thừa, khuyến khích bế quan nhập Thất Thiền tu, 14 ngày đêm miên mật tham cứu công án thoại đầu...


Người đời sau công nhận vua là người duy nhất trong tất cả các hoàng đế Trung Quốc thực sự tham thiền chứng ngộ, đắc đại tự tại.


Thanh triều Ung Chính Hoàng đế, vị cư sĩ Bồ tát Kiến tính ngộ đạo, được sự ấn chứng truyền Tâm Pháp ấn từ Quốc sư Chương Gia. 


Khang Hy năm bốn mươi bốn (1705), Quốc sư Chương Gia được ban Kim Ấn và sắc phong “Quán Đỉnh Phổ Tuệ Quảng Từ Đại Quốc Sư-灌頂普慧廣慈大國師”.


Thanh Thế Tông (清世宗), húy là Dận Chân (胤禛), Hoàng đế hiệu Ung Chính (雍正), Pháp hiệu theo Phật giáo có hai danh xưng tự hào Cư sĩ Viên Minh, Cư sĩ Hòa Phá Trần, sinh vào ngày 13 tháng 12 năm 1678, là con trai thứ 4 của Thanh Thánh Tổ Khang Hy hoàng đế, và là cha của Hoàng đế Càn Long, mẹ là Hiếu Cung Nhân hoàng hậu Ô Nhã thị, thuộc Tương Hoàng kỳ Mãn Châu, vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1722 đến 1735. 

Thanh triều Vị Anh minh Hoàng đế Kiến tính Ngộ đạo 3Thanh triều Vị Anh minh Hoàng đế Kiến tính Ngộ đạo 1


Sau khi Ung Chính đăng cơ kế vị ngôi cửu ngũ, nhân những lúc rảnh việc triều chính, vua tự mình thăng tòa giảng kinh thuyết pháp, lấy hiệu là Viên Minh cư sĩ. Gần như Vương thất Tông thân, xa như Hòa thượng và Đạo sĩ, mọi người nườm nượp đến học Phật pháp với Vua. Ung Chính Hoàng đế đọc hết các kinh sách Thiền tông như “Chỉ nguyệt lục-指月錄”, “Chính pháp nhãn tạng-正法眼藏”, “Thiền tông chánh mạch-禪宗正脈”, “Giáo ngoại biệt truyền-教外別傳”… và vào năm Ung Chính thứ 11 (1733) đã cho phát hành một tuyển tập ngữ lục Thiền tông có giá trị nhất thời bấy giờ là “Ung Chính ngự tuyển ngữ lục-雍正禦選語錄” và các ngữ lục của Thiền tông.


Ung Chính Hoàng đế rất nguyên tắc trong tuyển biên, bất trọng hư danh, chẳng màng sự chê khen, chỉ cần đạt đến Lý địa chân thật; chẳng cần trao hoa văn chuốt mỹ từ, chỉ xem trọng tính địa lưu xuất. Ung Chính Hoàng đế tự thân tuyển biên 12 vị, chủ yếu là Thiền sư, trọng yếu là ngữ lục và hơn 500 vị Thiền tăng, Thiền ngữ cư sĩ, Ung Chính Hoàng đế tự trứ thuật Thiền ngữ. Đặc biệt, mỗi quyển Ngữ lục, Ung Chính Hoàng đế tự Ngự chế tự ngôn, tha thiết rằng; Xiển minh Tâm yếu, hướng dẫn người học.

 

Vua Ung Chính còn là người biết trọng dụng cao Tăng vào việc quốc gia đại sự. Vua từng triệu thỉnh Thiền sư Văn Giác vào cung bàn luận những việc cơ mật nhất của quốc gia. Năm Ung Chính thứ 11, Thiền sư Văn Giác (文覺禪師) đi hành hương Giang Nam, trên đường xuống phương Nam, đội nghi trượng của Ngài hùng dũng, oai nghiêm trông giống như của một vị Vương công, Đại thần. Tất cả quan viên ở các nơi Ngài đi qua đều phải đến đảnh lễ Ngài. Có thể thấy, Thiền sư Văn Giác có thân phận đặc biệt và địa vị quan trọng như thế nào.


Ung Chính rất chú ý đến việc hộ trì chùa chiền. Năm Ung Chính thứ nhất, tỉnh Thanh Hải giặc dã nổi lên làm loạn, đại tướng quân Niên Canh Nghiêu đến dẹp loạn, lệnh cho các Lạt Ma ở chùa Đan Cát Nhĩ dọn đi, dành 1500 gian phòng trong chùa làm chỗ cho quan binh lưu trú, khiến các vị Lạt Ma vô cùng bất mãn. Sau khi Ung Chính biết, vua lập tức ra chiếu chỉ yêu cầu Niên Canh Nghiêu rút hết quân ra khỏi chùa. Rồi đến chuyện quan huyện Đường Sơn, tỉnh Trực Lệ (nay là tỉnh Hà Bắc) phản đối phật sự, hạ lệnh đuổi tăng ni đi, cưỡng đoạt tăng xá, sửa thành nhà dân. Ung Chính biết tin, xuống chiếu yêu cầu lập tức bắt giữ tên quan huyện này hỏi tội, sau nhờ Thị lang Lưu Bảo ra mặt xin cho nên hắn mới được xử nhẹ tay.


Những năm cuối đời, vua Ung Chính đã cho tu sửa rất nhiều ngôi Già lam cổ tự nổi tiếng như: Sùng Ân Tự (崇恩寺) ở Kinh Khê, Giang Nam, Đạo tràng Quốc sư Ngọc Lâm (玉琳國師) truyền pháp, Ung Chính thập nhất niên hạ chiếu trùng tu. Báo Ân Tự (報恩寺) ở Thiệu Hưng, Triết Giang, đạo tràng Quốc sư Ngọc Lâm khai đường, phụng chỉ duy tu. Phổ Tế Tự (普濟寺) và Pháp Vũ Tự (法雨寺) ở núi Phổ Đà, Triết Giang, Thánh địa Quan Âm Đại sĩ.


Về mặt Phật học, Ung Chính cũng đã viết và soạn rất nhiều sách như: “Giáo thừa pháp số-教乘法數”, “Viên Minh ngữ lục-園明語錄“, “Tập vân bách vấn-集雲百問”, “Luyện ma biện dị lục-揀魔辨異錄“, “Duyệt tâm tập-悅心集“, “Phá Trần Cư Sỹ ngữ lục-破塵居士語錄“, “Ngự tuyển ngữ lực-禦選語錄”, “Phiên dịch danh nghĩa tuyển-翻譯名義選”, “Thiền sư tâm phú tuyển chú-禪師心賦選注”, “Đại Giác thiền sư lục-大覺禪師錄”, “Vạn thiện Đồng quy tập-萬善同歸集”, “Đương kim pháp hội-當今法會”, “Kinh hải nhất trích-經海一滴, “Tông kính đại cương-宗鏡大綱và các công trình Phật giáo khác.


Các sách Phật học này cho thấy vua Ung Chính không chỉ tin Phật sùng Phật mà còn nghiên cứu uyên thâm về Kinh văn Phật gia. Sau khi phát hành, sách Phật học của vua Ung Chính đã có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Trung Quốc. Vua Ung Chính vừa làm tròn việc nước, vừa cho ra đời rất nhiều trước tác Phật học, trên thế gian này, thực sự khó tìm được vị Hoàng đế thứ hai nào như vậy. 


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Zhibeifw)

 
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5493)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3793)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28062)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5604)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8288)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4754)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3585)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7195)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3915)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5122)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567