Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khi một cựu chiến binh trở thành Thiền sư

03/01/202215:32(Xem: 3366)
Khi một cựu chiến binh trở thành Thiền sư

Khi một cựu chiến binh trở thành Thiền sư 2
Khi một cựu chiến binh trở thành Thiền sư
Nguyên tác: Karen Tong và Meredith Lake 
Việt dịch: Nguyên Giác

Lời Giới Thiệu

Bài viết “How a Vietnam War veteran became a Zen Buddhist monk” (Tiến trình một cựu chiến binh Hoa Kỳ thời Cuộc Chiến VN trở thành một Thiền sư Phật giáo) trên đài ABC Radio National là của hai tác giả Karen Tong và Meredith Lake viết cho mục Soul Search trên đài ABC Radio National. Bản dịch ra tiếng Việt do Nguyên Giác thực hiện như sau.

 

Claude AnShin Thomas đã bước từ chiến tranh tới Hòa Bình. Khi còn là một vị thành niên, thầy gia nhập quân đội Hoa Kỳ và được gửi vào tham dự Cuộc Chiến Việt Nam. Bây giờ, Claude là một nhà sư Phật Giáo và là một vị thầy nổi tiếng về Thiền tọa. 

Thầy nói với chương trình Soul Search trên làn sóng phát thanh RN của Úc châu, “Một mặt, tôi là một người như tôi là, vì những gì tôi đã làm, và những nơi tôi đã tới. Cùng lúc, đời tôi bây giờ gắn bó với nỗ lực kết thúc tất cả các cuộc chiến, tất cả các bạo lực --- và tôi tin điều đó có thể thực hiện.”

Từ khi bước sâu vào truyền thống Thiền Phật Giáo, Claude đã thấy gốc rễ chiến tranh, bạo lực và đau khổ là từ nội tâm, không phải từ bên ngoài. Thầy nói, “Chúng hiện hữu trong mỗi người chúng ta một cách riêng tư, và trách nhiệm chúng ta là tỉnh thức thấy như thế.” 

 

Một con đường tất yếu tới chiến tranh

Thân phụ của Claude đã tham dự Thế Chiến thứ hai, và ông nội đã tham dự Thế Chiến thứ nhất, do vậy như dường tất nhiên là Claude đăng lính vào Lục quân Hoa Kỳ -- và thầy làm như thế năm 17 tuổi. 

Thầy nói, “Thân phụ tôi khuyên là tôi nên vào lính bởi vì quân đội sẽ làm tôi thành người tốt, giúp học kỷ luật.” Thân phụ của Claude không bao giờ nói về thời kỳ chính ông trong quân đội, chỉ trừ “vài chuyện lãng mạn, vô hại” và không bao giờ xác nhận về ảnh hưởng chiến tranh trên con người ông.

Nhưng Claude đã thấy những nỗi hỗn loạn nội tâm – và đã không biết cần đối phó thế nào --  đã tác hại vào đời sống thân phụ. Claude nhớ lại, “Bố tôi phải dùng tới rượu, thuốc lá – ông hút từ 50 tới 60 điếu thuốc mỗi ngày – và ông đã có một thói quen ẩm thực kinh hoàng.” 

Sau khi vào quân đội Hoa Kỳ, Claude giữ vị trí xạ thủ từ trực thăng và rồi cơ trưởng tại Việt Nam. Claude bị bắn rớt 5 lần, và được giải ngũ vì chiến thương khi mới 20 tuổi; Claude lãnh nhiều huy chương và một Huân Chương Purple Heart. Claude nói, “Tôi tình nguyện tham chiến bởi vì tôi có ấn tượng rằng đó là trách nhiệm của tôi.” 

Nhưng đó không phải là động cơ duy nhất của thầy. Claude nói, “Tôi đã nghĩ là nếu tôi tham chiến, phục vụ một cách vinh dự, khi tôi về lại quê nhà, việc làm sẽ có sẵn, các thiếu nữ sẽ yêu tôi và sẽ phủ phục nơi bàn chân tôi. Mọi thứ sẽ trao cho tôi vì tôi sẽ là 1 anh hùng quốc gia.

 
Khi một cựu chiến binh trở thành Thiền sư 1

Một năm tại Việt Nam

Claude chưa từng bao giờ nhìn thấy một chiếc trực thăng trước ngày đầu tiên đặt chân tại Việt Nam, khi được bổ nhiệm làm xạ thủ ngồi bắn xuống từ cửa trực thăng. Thầy nhớ lại, “Tôi hoàn toàn thơ ngây, thực sự chưa chuẩn bị gì cho trách nhiệm tôi được trao cho. Tôi tìm kiếm các chiến đấu cơ sẽ tấn công chúng tôi. Nhưng quân Việt Nam phía bên kia không có chiến đấu cơ nào, và tôi trước đó đã không biết như thế.” 

Ngày đầu tiên của Claude trong đơn vị trên nguyên tắc sẽ là giới thiệu nhẹ nhàng – một chuyến bay không tác chiến để nhận và phân phối thư tín, và vận chuyển người. Nhưng khi họ trở về doanh trại, cơ trưởng của Claude chạy tới, nói, “Chúng ta phải đi.”

Claude nhớ lại, “Tôi quá sợ hãi, tôi tràn ngập nỗi sợ. Tôi nhớ hình ảnh bước ra khỏi chuyến bay và nhìn thấy người ta làm sạch máu trên trực thăng từ những người bị bắn trúng, bị thương hay đã chết.”

 

Cuộc hồi hương không anh hùng

Claude mô tả hình ảnh trở về đời thường tại Mỹ của thầy như là hỗn loạn. Nó không anh hùng tí nào như thầy từng nghĩ trước đó. Claude trải qua nhiều năm thất nghiệp, cô lập xã hội, bạo lực và nghiện. Claude nói, “Tôi cảm thấy dơ bẩn, hư hỏng. Tôi cảm thấy xương cốt tôi bị kẽm gai quấn lấy, và cứ mỗi lần tôi xoay hướng nào thì kẽm gai cứa vào người tôi.” 

Claude nói rằng thầy đã mang, và vẫn còn mang, trách nhiệm về nhiều cái chết và tàn phá, và gánh nặng của vết thương đạo đức và căng thẳng hậu-chấn-thương. Claude nói, “Tôi không hoảng loạn. Quan hệ của tôi với thế giới trong đó tôi sống làm ra ý nghĩa tuyệt đối dựa vào sự thật của đời tôi và vào quá khứ chiến trường của tôi. Chúng tôi, những người đã tham chiến đều bị thương tích về mặt đạo đức, chúng tôi bị thương, bởi vì những gì chúng tôi bị yêu cầu làm là phản bội đối với tất cả những gì chúng tôi bị điều kiện hóa để tin là đúng và chính xác. Tôi không phải là một người tốt hay xấu vì những gì tôi đã làm, nhưng tôi chịu trách nhiệm.”

 

Con đường bất ngờ tới bình an

Claude dứt nghiện từ năm 1983, và bắt đầu bước vào đường Phật giáo từ năm 1990. Một nhân viên xã hội đã chỉ Claude tới một kỳ thiền thất. Ban đầu Claude nghi ngờ, nhưng khi tham dự thiền thất thì thấy có điều thích hợp. 

Claude kể lại, “Họ chỉ yêu cầu tôi ngồi xuống và để thân tâm bình lặng, để rồi mang như thế vào đời tôi và để thấy những gì tự nó hiển lộ ra cho tôi. Tôi không thể nhớ chính xác những gì được nói lên [trong thiền thất], nhưng tôi có thể nhớ những gì tôi nghe là một sự thật tôi trước dó đã biết từ khi tôi 10 tuổi. Chúng ta không phải người xấu muốn tìm cách làm tốt, chúng ta là những người bị thương tích đang tìm sự chữa lành.

Sau khi gắn bó với thiền tập, Claude tu học với vị Thiền sư Việt Nam Thích Nhất Hạnh, rồi sau đó với vị Thiền sư hoạt động hòa bình Bernie Glassman. Rồi năm 1995, Claude thọ giới cụ túc để trở thành một Thiền sư trong dòng tu Thiền Tào Động Nhật Bản (Japanese Soto Zen).

Ngồi thiền bây giờ là một kỷ luật chủ yếu với Claude, người hồi 40 năm trước, hễ bước đi bên ngoài nhà tù là mang theo trong người một khẩu súng. Claude nói, “Tôi đã không làm những gì đặc biệt, ngoại trừ giữ kỷ luật là khi ngồi thì chỉ ngồi thôi, là khi bước đi thì chỉ bước đi thôi, là khi ăn thì chỉ ăn thôi, là khi làm thì chỉ làm thôi.”

Pháp này cũng giúp Claude hóa giải những tác động của chiến tranh trên thân. Claude nói rằng không hề ngủ được hơn 2 giờ đồng hồ liền kể từ năm 1967. Claude không còn xem việc “chữa lành” như là có thể ngủ ngon, ngủ không ác mộng, nhưng là học cách chấp nhận rằng “cách tôi ngủ thế nào thì chỉ là cách tôi ngủ. Chữa lành không phải là vắng mặt của đau khổ. Đó là học để sống trong một quan hệ tích cực và tỉnh thức với đau khổ đó.”

 

Giúp người khác bình an

Xuyên qua tổ chức Zaltho Foundation, Claude dạy zazen (ngồi thiền) cho thường dân và các cựu chiến binh, và phổ biến thông điệp của bất bạo động tích cực, chuyển hóa và thay đổi. 

Claude nói, “Tôi khuyến khích người ta rằng khi ngồi thì chỉ là ngồi thôi. Nếu chúng ta muốn kiếm gì từ đó, thì điều thực sự hiển lộ cho chúng ta qua tiến trình đó, chúng ta sẽ không thấy nó, chúng ta sẽ lạc mất nó. Tiến trình này không phải là tìm kiếm những gì tốt đẹp, mà chỉ là tỉnh thức.”

Và chính là qua thiền tập này, người cựu chiến binh từ chiến trường Việt Nam này đã hiểu thêm về hòa bình. Claude nói, “Với thân tâm lặng lẽ, tập trung vào nền tảng của đời sống – tức là, một hơi thở này theo sau một hơi thở khác – bình an có cơ hội để tự hiển lộ chính nó ra với tôi, khi nó sẽ hiển lộ trong từng khoảnh khắc tiếp theo. Bình an không phải là một thực tại cố định.”

 

Hướng dẫn ngồi thiền cho người mới tập

Claude khuyên rằng bất kỳ ai muốn tập ngồi thiền hãy nên tìm một nhóm, để có sự hỗ trợ, và một vị thầy từ một truyền thống lâu dài đưa ra lời hướng dẫn. Dưới đây là một vài hướng dẫn căn bản Claude đưa ra bất cứ khi nào hướng dẫn một buổi ngồi thiền.

 

Ngồi

Claude nói, “Chẳng hề gì về nơi bạn ngồi trên đó. Dù là bạn ngồi trên ghế, hay trên giường, hay trên sàn nhà, trên tọa cụ hay một băng ghế, điều quan trọng là ‘hãy có bệ đỡ vững vàng – tức là ba điểm tiếp cận. Nếu bạn ngồi trên mép một chiếc ghế hay giường [thõng chân xuống], thì ba điểm tiếp cận [vững vàng] này là mông và hai bàn chân. Nếu bạn ngồi trên sàn nhà, hay trên tọa cụ hay một băng ghế, thì ba điểm tiếp cận [vững vàng] sẽ là mông và hai đầu gối.” 

Nhận biết về không gian và thân

Hãy giữ hông của bạn nghiêng về phía trước, và cằm thu vào trong. Hai tai nên thẳng với hai vai, mũi thẳng với rún. Đầu chớ nghiêng về trái hay phải, chớ nghiêng trước hay sau.

Giữ hai mắt gần như khép lại

Claude nói, “Nếu bạn muốn ngồi với mắt nhắm lại, coi chừng đừng ngủ gục.”

Claude nói về hai tay: “Lấy lưng bàn tay trái đặt trong lòng bàn tay phải, và chúng ta an nghỉ như thế trên hai đùi với hai đầu ngón cái gần chạm nhau. Nói gần chạm nhau bởi vì, khi chúng ta bị phân tâm ra khỏi điểm cốt tủy là ý thức về hơi thở, hai ngón cái sẽ chạm nhau. Đó là một nhắc nhở vi tế… để tỉnh thức trở lại với ý thức về hơi thở.”

Hơi thở

Hãy thở vào xuyên qua mũi và hãy thở ra xuyên qau miệng, và hãy thở sâu vào bụng. Khi thờ vào, Claude nói, “Chúng ta không theo hơi thở vào thân. Chúng ta nên chú tâm vào điểm chính xác nơi hơi thở vào thân.” Khi thở ra, “Chúng ta không theo hơi thở ra ngoài thân, nhưng chúng ta chú tâm vào điểm chính xác nơi hơi thở rời thân.”

Lặng lẽ

Chớ nên chuyển động. Claude nói, “Chớ cử động nhúc nhích, đừng dễ dàng nuông ý định là gãi đầu hay vuốt má hay làm gì.” Tuy nhiên, khi thấy cảm thọ bất an cứ tiếp tục hay tăng mạnh hơn, thì hãy cử động thân “với ý thức rằng nó ảnh hưởng tới không gian nơi bạn đang ngồi.”

 

Nguyên tác: https://www.abc.net.au/news/2022-01-02/vietnam-war-veteran-zen-buddhist-monk/100731206 
Việt dịch: Nguyên Giác


youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5554)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3833)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28318)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5682)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8423)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4816)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3627)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7289)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3984)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5192)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567