Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 của Tiểu văn hóa hipster

03/01/202214:47(Xem: 3175)
Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 của Tiểu văn hóa hipster

Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960
của Tiểu văn hóa hipster
(Echoes of Peace from the Hipster 50s and 60s)
 

Lần đầu tiên tôi được cảm giác "Hòa bình"*, như một câu khẩu hiệu nhóm nhạc, trở lại vào sau giữa thế kỷ 20 thập niên 1950 từ các nhạc sĩ be-bop trong làng nhạc jazz khu vực Toronto, Canada, những người đã quen với việc giao tiếp bằng biệt ngữ Tiểu văn hóa (Hipster) và được mã hóa. "Hòa bình" biểu thị việc cố gắng không trở nên nổi khùng trong thế giới điên cuồng thát loạn, tàn nhẫn, bất cần. Chúng tôi đang tổn thương tâm lý và chúng tôi cần được an ủi. 


Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 3
Hình 1:  Cộng đồng Yorkville của Toronto, Canada vào những thập niên 1960. Ảnh: activehistory.ca


"Hòa bình" biểu tượng của sự bình yên, nơi không có đổ máu, chiến tranh. Điều mà bất cứ nước nào, bất cứ ai trên toàn thế giới đều mong muốn nhưng không phải nơi nào cũng có được.


Đầu những thập niên 1950, khi rời xa một đối tác thân thiết, chúng âm thầm nói thầm thì "Hòa bình" và người bạn đồng hành của chúng tôi sẽ hiểu rồi đáp lại nhẹ nhàng trong một giai điệu "Hòa bình". Chúng tôi cùng nhau mong được yên tâm thay vì cảm thấy bị hoảng loạn, rắc rối, bị tra tấn, phát điên cuồng, thậm chí trở nên bất an về thể xác và tinh thần. 


Thời Kỳ Thế Hệ Beat (The Beat Generation – 1944-1962): Các tác giả của phong trào Beat, như một nhà tiên phong của thế hệ Beat, người bài trừ thánh tượng văn học Cư sĩ Jack Kerouac (1922-1969) và một nhà thơ Mỹ, một trong những thủ lĩnh của Thế hệ Beat của thập niên 1960 Allen Ginsberg (1922-1969), đều chống lại nền văn học truyền thống, trong văn chương, và chống lại các thể chế chính trị. Thời kỳ này xuất hiện những tác phẩm thú tội và tình dục đưa đến các thách thức pháp lý và tranh luận về sự kiểm duyệt tại Mỹ. 


Năm 1958, Cư sĩ Jack Kerouac (1922-1969) viết cuốn tiểu thuyết “Dharma Bums.” (佛法浪蕩漢), ông đã viết và ghi chú rất nhiều tài liệu Phật học để làm tài liệu dạy Phật Giáo cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về Đạo Phật. Như thể những pháp âm vi diệu của đạo Phật đã vang vọng thấu suốt thời đại, với mong muốn những người yêu chuộng "Hòa bình"của chúng ta thể hiện ý định hảo tâm, từ bi tâm, quan quan mà ban bè, người quen thân, thậm chí những người lạ không quen biết nên tận hưởng một trạng thái cân bằng, sức khỏe thể chất lẫn tinh thần và an lạc hạnh phúc. 

Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 1

Hình 2: Cuốn tiểu thuyết "Dharma Bums". Ảnh:  pinterest.com


Chúng tôi cảm thấy rằng những bất kỳ lợi ích tương tự sẽ áp dụng cho tất cả đồng loại - những người có thể đã phải chịu đựng với cảm giác về Hội chứng “baby blues”, trong quá trình đấu tranh về mặt tinh thần - cả bên trong bản thân học và bên ngoài xã hội. Sau đó, như bây giờ, tình trạng tình trạng ốm yếu đó đã phổ biến hầu hết nhân loại, bao gồm cả nhiều người di cư, những người rời bỏ châu Âu đến Canada sau Đệ nhị Thế chiến và những người đang cố gắng hòa nhập nhưng vẫn cảm thấy xa lạ, như những người tha hương trong một thế giới xa lạ. 


Vào những ngày đó ở khu vực toronto, Canada rộng lớn hơn, bạn cùng lớp, bạn bè, người quen và tất cả những người khác, không phân biệt chủng tộc, hoặc nguồn gốc tôn giáo, được coi là một phần của những người dễ bị tổn thương, vô tội, trong giao tiếp loài người dễ gây tổn thương cho nhau và xứng đáng được tôn trọng lẫn nhau, tình yêu thương một cách chân thành và cởi mở với nhau.  Đây là một cảm xúc được định nghĩa một cách mơ hồ: một thứ bẩm sinh, không thể thốt ra lời, mệnh lệnh, rung động trái tim, giống như một giai điệu nhạc trong từ bi tâm, sáng tạo, đang điều chỉnh tâm trí trong chế độ dàn nhạc đầy đủ. Cách quan tâm đến mọi người xung quanh, điều này cho thấy 'đối xử phần đầu, phần giữa và phần cuối' đã nhấn mạnh đã chạm đến tận đáy lòng của mỗi chúng ta. 


Chúng ta đang dự tính cảm giác đau khổ của bản thân; toát lên, linh hoạt, bao dung và lan tỏa rộng rãi khắp nơi trên thế giới để đón nhận tất cả những người khác với tình cảm đồng loại, như những người anh chị em cùng chung một đại gia đình, cần phải che chở đùm bọc cho nhau. Chúc phúc cát tường cho tất cả họ có được cảm giác trong từng hơi thở, từng bước chân thanh thản hồn nhiên, an lạc hạnh phúc như con người lý tưởng mà bản thân mỗi người chúng ta đang cần. Quan tâm đến người khác mang lại cho chúng ta một cảm giác tuyệt vời bởi chúng ta đang khuếch trương cảm xúc tích cực và biểu hiện một cách từ bi tâm. 


Chúng ta cũng nhận thức được những mặt đối lập xã hội của chúng ta là những đối tác là những người đang sống và làm việc trong cuộc sống thế tục, họ có những hành vi trái ngược với chúng ta, thô bạo, ồn ào, tham lam, hung hăng, nhám nhúa, thờ ơ, tự cao tự đại, ích kỷ, thù hận và quá tệ, dường như họ không thể hiện rõ dấu hiệu bên ngoài của sự ấm áp bởi từ bi tâm và an lạc hạnh phúc. 


Ngày nay, khi tăng lượt hơn 5.000 người bạn và người theo dõi trên Facebook của mình, thật khó để nghe thấy bất kỳ dư âm hoài cổ, vang dội từ sau giữa thế kỷ 20 những thập niên 1960 của "hipster" tiểu văn hóa vọng lại xuyên suốt hành lang thời gian, điều này khiến tôi tự thắc mắc những thế hệ trẻ thanh thiếu niên ngày nay có thể đang nghĩ gì và cảm thấy thế nào. . . Tôi không thể hiệu được họ, nhưng tôi quan tâm đến họ một cách gián tiếp bởi vì triển vọng cho tương lai của họ, dường như không báo trước sự sáng láng bởi nhanh trí. 


Vì lý do này, tôi chúc phúc cát tường cho họ, cùng với các thệ hệ trên trước cha mẹ và ông bà của họ, vòng cung rộng lớn hơn của bạn bè và tất cả những người của nhân loại còn tại thế, thanh thản hồn nhiên, an lạc hạnh phúc, mãn nguyện, niềm vui thông cảm và bình yên nội tại.


Không còn có thể trải nghiệm cảm giác yên bình hoài cổ đó, những người thuộc thế hệ tôi từng cảm thấy vào sau giữa thế kỷ 20 những thập niên 1960 về sau, bởi vì các điều kiện của thế giới bên trong tinh thần thay đổi bởi mỗi cá nhân, rõ ràng đã phát triển, mặc dù nhiều người cao niên của chúng ta hẳn đã trở nên cân bằng hơn và trưởng thành hơn. 


Nhìn vào thế giới kinh tế tài chính ngày nay, quan sát khía cạnh hành vi của con người tham lam, hiếu chiến, bày mưu tính kế, thâm hiểm, tôi nhận thức được rằng các yếu tố kinh tế đương đại càng ngày trở nên bế tắc hơn, hạn hẹp hơn, hạn chế hơn bao giờ hết. Các điều kiện đang thay đổi nhanh chóng, khiến người tiêu dùng đương đại phải trải qua cảm giác lo lắng và căng thẳng nghiêm trọng ở cấp độ tâm lý trở nên trên cơ sở cá nhân nội tâm là sự nghi ngờ và rối loạn tâm thần, về cơ sở bên ngoài tập thể của chúng ta bởi sự bối rối về tinh thần trong môi trường tự nhiên đang chết dần chết mòn. 


Đồng thời 'nếu tất cả những điều nêu trên không phải là quá nhiều để phải giải quyết' chúng ta thấy mình bị buộc phải tồn tại một cách miễn cưỡng khi đối mặt với một thảm họa hạt nhân khủng khiếp đang chờ xử lý. Cảm thấy bị đe dọa và hoàn toàn không được bảo vệ, với những điềm báo đáng sợ, quá gần để không sợ hãi và ngày càng tiến gần hơn trên một chân trời đang tiến sâu bên trong. 


Âm vang của Hòa bình từ những thập niên 1950-1960 2

Hình 3: Quán cà phê Riverboat ở Yorkville, Toronto, Canada. Ảnh: knowyourgrinder.com


Những ngày này, ở tuổi già của tôi, không thể nào lặp lại quá khứ do sự hao mòn của thời gian và cố gắng của điều kiện đã phát triển theo năm tháng. Bất chấp những linh cảm như thế, tôi vẫn hằng mong ước mình có thể chia sẻ cảm giác tương tự về tình cảm anh em/chị em ấm áp mà tôi cảm thấy đối với các nhạc sĩ be-bop trong làng nhạc jazz khu vực Toronto, Canada, đồng nghiệp của tôi trong những thập niên 1960.    


May mắn thay, một số người trong chúng ta sẽ dần dần tiếp tục khơi dậy nỗ lực tinh thần nghiêm túc để trau dồi sự phát triển nội tâm, để sự hiểu biết và sự biện biệt của chúng ta không chỉ trở nên rộng hơn và rõ ràng hơn, mà còn sâu sắc hơn, khôn ngoan hơn, dẫn đến đối với tình cảm nhân từ và về bản thân, đồng loại của chúng ta, với mong ước về một thế giới tươi đẹp hơn cho toàn thể nhân loại. 


Khi có thời gian và cơ hội để hiểu biết về thế giới rộng lớn hơn, chúng ta cũng sẽ trau dồi sự hiểu biết về từ bi tâm, những hoạt động trí óc, tâm trí của đồng loại, điều này cho phép chúng ta chạm sâu vào trong tâm khảm của cả những người bị xã hội tàn ác nhất, ngay cả những cá nhân bị hành hạ tồi tệ nhất trong xã hội. Chúng ta có thể hiểu những lỗ hỏng bên trong của họ và đã khiến họ bị tổn thất, ít nhất bề ngoài thật khó chịu, bởi những con tinh ranh quỷ quyệt, xấu xa gian ác, đáng sợ và đáng ghớm ghê như thế nào. 


Trước khi kết luận, tôi muốn nói thêm rằng tôi mong muốn lành mạnh rằng những đại gia tỷ phú và chủ nghĩa tập thể ích kỷ, những người đặt lợi nhuận cá nhân lên trên con người và tiếp tục vô cảm, vô tâm, tiếp tục phá hủy sự cân bằng bấp bênh của môi trường của chúng ta, cuối cùng sẽ không được phép phá hủy các hệ sinh thái quý giá, duy trì tất cả các cuộc sống. 


Tôi hy vọng rằng họ sẽ phát triển ý thức và kỷ luật tốt (hoặc sẽ bị buộc bởi sự quản lý tốt) để ngăn chặn quá trình dần dần diệt khuẩn của các hệ thống sinh học của chúng ta chỉ vì mục đích thỏa mãn lòng tham nhất thời của những người giàu có nhất thuộc thế hệ cũ lại 'trớ trêu thay nó cũng đang chết dần chết mòn. Nó đi ngược lại tự nhiên và lẽ thường khi cho phép các tỷ phú doanh nghiệp tiếp tục nắm giữ và thao túng các công cụ tài chính nguy hiểm, có khả năng gây tổn hại cho thiên nhiên. 


Khi chúng ta xem xét thiệt hại lâu dài, cái giá phải trả và sự mất mát, đe dọa thế hệ sau và con cái của họ trên các khía cạnh an ninh thể chất và tinh thần, chúng ta nhận thấy rằng họ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chịu đựng, với cường độ ngày càng tăng, miễn là tình trạng tiếp tục trở nên tồi tệ hơn, cho đến khi cuối cùng họ phải đối mặt với một kết cục trực diện, tất yếu không thể tránh khỏi sự đối đầu vào nhau, quyết liệt, xấu xa, nảy lửa, cuối cùng là nghiệp lực.


* Câu khẩu hiệu "Hòa bình", "Hãy làm tình, thay vì gây chiến" (tiếng Anh: Make love, not war) là khẩu hiệu chống chiến tranh thường liên quan phổ biến phong trào chống văn hóa thập niên 1960 ở Hoa Kỳ. Khẩu hiệu này ban đầu được sử dụng chủ yếu bởi những người chống chiến tranh Việt Nam nhưng đã được viện dẫn trong những ngữ cảnh chống chiến tranh khác kể từ đó. Phần "yêu thương" (make love) của khẩu hiệu thường để nói tới việc thực hành tự do yêu đương, một phong trào phát triển ở giới trẻ Mỹ không chấp nhận hôn nhân, coi đó gây ràng buộc về xã hội và tài chánh, một công cụ của những người ủng hộ chiến tranh và ưa chuộng nền văn hóa cổ truyền bảo thủ. Đây là một "hippie" văn hóa lối sống của thanh niên, phát sinh từ một phong trào tại Hoa Kỳ trong giữa những năm 1960 và sau đó lan rộng sang các nước khác trên thế giới đến muộn hơn một chút so với thế hệ của tôi.


Tác giả Prof. David Dale Holmes

Biên dịch Thích Vân Phong

(Nguồn: 佛門網)


youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5516)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3803)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28149)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5627)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8331)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4780)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3598)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7222)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3934)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5139)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567