Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý

23/11/202122:09(Xem: 5106)
Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý

Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý 3

Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý
(修行與轉化 禪修與心理諮商的對話)

Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.


Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý 2

Thạc sĩ Dương Bội chỉ ra rằng sự phát triển chuyên nghiệp hóa Tâm lý trị liệu, có khuynh hướng y tế bệnh lý hóa và khuynh hướng tăng trưởng loại bỏ bệnh lý hóa. Sự phát triển của học phái chuyển dần từ việc được hướng dẫn, bằng cách tìm kiếm dược liệu để chữa bệnh, để được hướng dẫn bằng cách chấp nhận tự ngã, và chú ý nhiều hơn đến khía cạnh linh tính. Trị liệu nhận thức dựa trên chánh niệm (Mind Mind Based Cognitive Therapy, MBCT) đề xuất các kỹ thuật tu thiền và giải mạch lạc hóa, kết hợp y học thực chứng, đó là một xu hướng, nó có hiểu biết sâu sắc về văn hóa phương Tây và hiện đại, nhưng nó vẫn bị một số phê bình bởi giới học giả Phật giáo. 


Thạc sĩ Dương Bội phản tỉnh Phật pháp và tâm lý trị liệu trong các phạm trù đối thoại bao gồm: "Phân tích Tinh thần" (精神分析), "Nghiệp cảm Duyên khởi" (業感緣起), "Hành vi Nhận thức" (認知行為), "chuyển Thức thành Trí" (轉識成智), "Tồn tại Nhân bản" (人本存在), "Pháp trụ Pháp vị" (法住法位).v.v. Nắm bắt điều này với thái độ bảo lưu, và cho rằng giữa hai bên tính đặc thù nhiều hơn cộng tính, đặc biệt là trên cách dùng ngôn ngữ.


Sau đó, tập trung vào cuộc đối thoại giữa tu thiền và tâm lý trị liệu, và dẫn chứng thuyết minh lý luận chủ nghĩa nhân bản, cho thấy rằng những người bình thường hay bị nhiều thao túng (Manipulating) khác nhau để duy trì sinh tồn; nếu họ lột bỏ tất cả các loại mặt nạ vũ trang, họ có thể thành những người sinh trưởng bình thường (Growing Normals), thậm chí tự họ thực hiện. Đây là "do Giác ngộ và Thanh tịnh" (由淨而悟), có thể được minh họa bằng quá trình tự chuyển hóa "nhận thức chính mình, khẳng định chính mình, tự mình trưởng thành, bao dung với chính mình" (認識自我, 肯定自我, 成長自我, 消融自我), đó là một cách thuyết minh tâm lý học của Trưởng lão Pháp sư Thánh Nghiêm dựa trên "tâm tán loạn, tâm tập trung, tâm thống nhất, vô tâm" (散亂心, 集中心, 統一心、無心).  Ngược lại, nếu dùng mặt nạ ma quái kinh dị, lâu ngày sẽ sinh tật bệnh thần kinh, đó là do nhiễm ô trọc (由染而濁).


Phương hướng tu thiền và tâm lý trị liệu là nhất trí, tác dụng của việc tu tập thiền định nhằm thoát khỏi các bệnh lý, xử lý liệu pháp miễn dịch thụ động và định hướng giải quyết vấn đề, định nghĩa "Bệnh" và "Bất bình thường", đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh, tạo điều kiện cho mọi người chủ động khám phá chuyển hóa bản chất của cuộc sống.


Cuối cùng, người ta khẳng định rằng tu thiền định và liệu pháp tâm lý trị liệu đều được sử dụng tương tác với nhau, và cần nhiều người tham gia để làm cho liệu pháp tâm lý trị liệu phát triển mạnh hơn nữa. 


Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý 1

Trong cuộc giao lưu, Giáo sư Quách Triều Thuận đề xuất Phật giáo xem xét lại sự "vô tâm" của Vô ngã và Tính không, làm tăng độ khó trong đối thoại với tâm lý trị liệu; đề tài diễn giảng này cung cấp quá trình tự trưởng thành của thiền định như một chiến lược đối thoại. Tuy nhiên, làm thế nào để chuyển tự Ngã thành vô Ngã, chuyển tâm thống nhất thành vô Tâm, xây dựng mô hình ba môn học chữa trị bệnh tâm lý, trọng tâm thoát khỏi định kiến trong tâm lý học, bệnh lý thần kinh thị giác, đây là những ưu tư trăn trở. Đáp lại, Thạc sĩ Dương Bội chỉ ra rằng việc công phu thiền tọa trên bồ đoàn, được ứng dụng trong cuộc sống là phần chính của việc tu hành, và thiền định là phần bổ trợ. 


Ngoài ra, có những điểm giống và khác nhau giữa mục tiêu của liệu pháp tâm lý "tự Ngã thực hiện" (自我實現) và mục tiêu của Phật giáo là "vô Ngã" (無我); bản chất của "ngôn ngữ" (語言) là sinh tồn trong cảnh khổ đau, sự "ly ngôn" (離言) của thiền định, và đại thừa Phật giáo dùng ngôn ngữ làm "phương tiện" (方便); việc cần thiết cởi bỏ "mặt nạ" (面具) để duy trì nhu cầu hệ sinh tồn; cách kết hợp liệu pháp tâm lý và phương pháp tiếp cận xã hội học, nhằm giải quyết các bệnh tật về tâm lý do các vấn đề xã hội gây ra, v.v.


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 佛光山人間通訊社)

 
***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 3417)
Tứ Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
25/12/2010(Xem: 7990)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 5416)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/12/2010(Xem: 5429)
Có những người tuy không hiểu biết nhiều về Phật Giáo nhưng lại có phần nào quen thuộc với giáo lý bất bạo động và từ bi của đao Phật, những người này thường hay lầm tưởng rằng giới Phật tử đều ăn chay. Họ có phần nào ngạc nhiên pha chút thất vọng khi khám phá ra rằng rất đông Phật tử ở cả phương Đông lẫn phương Tây vẫn thường ăn thịt (ăn mặn), cho dù không nhất thiết là tất cả Phật tử ai ai cũng ăn thịt như vậy.
03/12/2010(Xem: 3609)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle – cũng là ông thầy dậy học mình – nói về Ấn-Độ như là một dải đất mênh mông xa tít mù tắp tận chân trời, nên cảm thấy hứng thú phải đi chiếm lấy và để đem nền văn minh Hy-Lạp reo rắc cho các dân bản xứ.
28/11/2010(Xem: 4652)
Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học.
23/10/2010(Xem: 12133)
Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy.
22/10/2010(Xem: 6280)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 5109)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
15/10/2010(Xem: 7995)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567