Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sri Lanka: Hòn đảo thiêng lưu truyền Chánh pháp

19/01/202011:03(Xem: 4369)
Sri Lanka: Hòn đảo thiêng lưu truyền Chánh pháp
Sri Lanka: Hòn đảo thiêng lưu truyền Chánh pháp

Ba lần Đức Thế Tôn đến quốc đảo

Căn cứ vào 2 bộ sử liệu quan trọng của Sri Lanka là Mahāvamsa (Đại sử) và Dipavamsa (Đảo sử): trước khi Phật giáo được truyền bá chính thức đến Sri Lanka bởi ngài Mahinda - con trai vua Asoka (A-dục) thì Đức Phật đã đến Sri Lanka tổng cộng ba lần.

srinlanka1.jpg
Tháp Dagoba - Sri Lanka được xem là công trình kiến trúc độc đáo điển hình nhất của Phật giáo cổ đại



Vấn đề trên vẫn còn trong vòng tranh cãi về tính lịch sử và tính xác thực của sự kiện. Liệu đây là sự thật lịch sử hay chỉ là dã sử, huyền thoại được các nhà sử học thêm vào 2 bộ sử liệu trong các lần biên tập theo thời gian. Lần đầu tiên, Đức Phật đến Mahinyangana của đảo quốc - nơi tụ lạc Yaksa vào tháng Duruthu (tháng Giêng) ngày rằm (1 B.E hay 528 B.C) sau 9 tháng Ngài thành đạo. Tại đây, Đức Phật đã chiến thắng và quy y cho những yaksa cũng như vua Rồng Maniakkhika từ Kelaniya đến Mahinyangana để diện kiến và quy y theo Phật.

Lần thứ hai là 5 năm sau ngày Đức Phật thành đạo (5 B.E hay 523 B.C). Bằng thần thông, Đức Phật thấy cuộc chiến tranh do mâu thuẫn giữa hai chú cháu vua Rồng Culodara và Mahodara giành ngai vàng, ngài đã đến Nagadipa (đảo Rồng, nay thuộc tỉnh Jaffna) hòa giải tranh chấp và trao lại ngai vàng cho vua Rồng Maniakhika ở Kelaniya.

Lần thứ ba, Đức Phật đến theo lời mời của vua Rồng Maniakkhika đến Kelaniya vào năm 9 B.E (khoảng 519/520 B.C) cùng với 500 vị đệ tử của Ngài. Trong lần viếng thứ ba này, Đức Phật đã in bàn chân trái của Ngài lên trên đỉnh núi Sumanakuta (nay là Samanalakanda) theo lời thỉnh nguyện của thái tử Rồng tên Sumanasaman. Đỉnh Sumanakuta sau thời thuộc địa đổi tên thành Adam’s Peak.


Chánh pháp truyền trao

Cũng theo 2 bộ sử Mahāvamsa và Dipavamsa thì ngài Thánh tăng Mahinda, con trai vua Asoka là người truyền bá Phật giáo vào quốc đảo vào khoảng giữa thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Thánh tăng Mahinda thọ Đại giới năm 20 tuổi, làu thông kinh tạng, nghiêm trì giới luật và nhận trọng trách đến Sri Lanka truyền pháp theo lệnh của vua cha Asoka - vốn là bạn thân và là anh em kết nghĩa của vua Devanampiya Tissa đang trị vì vương quốc Tích Lan (Ceylon) lúc bấy giờ.

Ngài cùng 4 vị Tỳ-kheo khác là Itthiya, Uttiya, Sambala và Bhaddasala, Sa-di Sumana, cận sự nam Bhanduka cùng đến đảo quốc. Biết vua Devanampiya Tissa sẽ đi săn bắn ở ngọn núi Missaka (nay là Mahintale) - cách kinh thành Anuradhapura khoảng 12 cây số, Thánh tăng Mahinda diện kiến đức vua và thuyết kinh Dấu chân voi (Culahatthipadopanna sutta, Trung bộ I) và quy y Tam bảo cho nhà vua cùng đoàn tùy tùng.

Nhà vua hạnh phúc và hoan hỷ thỉnh đoàn của ngài Mahinda về cung để được cúng dường, nghe pháp nhưng đoàn xin ở lại trên núi và đến hoàng cung vào ngày hôm sau. Ngày hôm sau đến kinh thành, sau khi thọ trai, ngài Mahinda thuyết pháp từ 2 bài kinh Vimanavatthu và Petavatthu và kết thúc bằng giảng Tứ diệu đế trong Samyuttanikaya. Sau đó, vua dâng cúng vườn thượng uyển Mahamegha để lập Tăng xá cho Tăng đoàn trú ngụ. Tăng đoàn cuối cùng được thành lập và vườn thượng uyển sau này trở thành ngôi đại tự Mahavihara - trung tâm văn hóa Phật giáo của Sri Lanka sau này.

Hoàng hậu Amula và nhiều nữ nhân nghe kinh thuyết pháp cảm mến đạo Phật muốn xuất gia. Vua gửi cháu tên Arittha đến Ấn Độ thỉnh vua Asoka giúp đỡ, vua Asoka gửi con gái là Sanghamitta cùng Ni đoàn mang theo nhánh cây bồ-đề đến hải cảng Jambukola, Sri Lanka. Dân chúng và vua tiếp đón long trọng phái đoàn và cây bồ-đề. Cây bồ-đề này đến nay vẫn còn được chiêm bái, cúng dường hàng ngày tại Anuradhapura. Ni đoàn được thành lập sau đó không lâu. Số lượng Tăng chúng ngày một đông đảo, Tăng chúng trong chùa Mahavihara trong lịch sử ghi nhận có lúc lên đến 2.000 người, đánh dấu thời kỳ phát triển rực rỡ huy hoàng của Phật giáo tại Tích Lan (Sri Lanka).

srinlanka5.jpg
Núi Mahintale - nơi ngài Thánh tăng Mahinda gặp gỡ vua Devanampiya Tissa lần đầu tiên khi vua cùng đoàn tùy tùng đi săn bắn. Trong cuộc gặp này, nhà vua đã quy y với Thánh tăng Mahinda và thỉnh phái đoàn về cung để cúng dường và thuyết pháp cho triều đình




Kinh tạng lưu truyền và bước qua giông bão

Phật giáo trở thành quốc giáo dưới thời cai trị của vua Devanampiya Tissa. Từ ngày Phật giáo có mặt ở Tích Lan, sắc lệnh của các triều đại ghi rõ chỉ có Phật tử mới được làm vua và vị vua này phải hộ trì và xiển dương Phật pháp theo truyền thống Caritam để điều hành đất nước theo Chánh pháp. Truyền thống Caritam quy định rõ chỉ có các bậc hiền nhân (Saddara) mới được lên ngôi vua trị vì và thiết luật bảo vệ giá trị tâm linh, văn hóa Phật giáo.

Tăng đoàn đóng vai trò quan trọng trong triều đình, nhiều vị quốc sư đóng góp lớn vào sự thịnh vượng và phát triển của đất nước. Giáo hội trở thành một bộ của chính phủ. Những chính sách, luật lệ quốc gia được ban hành dựa trên Chánh pháp. Theo đó, người dân không được buôn bán vào những ngày Poya (ngày trai giới), sắc lệnh Maghata cấm giết hại động vật, tra khảo tù nhân, những người săn bắn phải đổi nghề. Xá-lợi răng Phật và bình bát của Phật thỉnh từ Ấn Độ được thờ tự như bảo vật vô giá của quốc gia, là thần hộ mạng của quốc gia mà các vị vua kế thừa phải luôn giữ gìn bên mình như nắm giữ vận mệnh dân tộc. Những ai nắm giữ hai bảo vật này sẽ lên ngôi vua.

srinlanka4.jpg
Bảo tháp xây dựng trên nền ngôi Đại tự Mahavihara, cái nôi và cũng là trung tâm Phật giáo Sri Lanka. Mahavihara được vua Devanampiya Tissa cúng dường cho phái đoàn ngài Thánh tăng Mahinda nhân dịp phái đoàn lần đầu tiên đến kinh thành Anuradhapura thuyết pháp và quy y cho hoàng tộc



Các triều đại sau đó, đất nước Tích Lan bị quân Tamil (vua Sena, Guttika, Elara từ Ấn Độ) xâm chiếm, Phật giáo bị tàn phá nghiêm trọng. Đứng trước nguy cơ diệt vong, các bậc cao tăng cùng các nhà lãnh đạo quyết định kết tập kinh điển để duy trì Chánh pháp tồn tại muôn đời. Theo các tài liệu lịch sử ghi lại, 500 bậc danh tăng thạc đức dưới sự bảo trợ của dân chúng và quan quân đã tụ tập tại núi Aluvihara (nay thuộc Matale cách thành phố Kandy 30 km) để chép lại toàn bộ Tam tạng và các bộ luận, sớ, chú giải bằng chữ khắc trên lá bối bằng tiếng Sinhalese vào thế kỷ thứ nhất trước kỷ nguyên. Nhờ sự kiện lịch sử này mà Tam tạng Thánh điển của Phật giáo được lưu giữ gần đầy đủ nhất và lưu truyền cho đến ngày nay. Sri Lanka có công lao to lớn trong việc giữ gìn Pháp bảo tạng của Phật giáo cho nhân loại nói chung và Phật giáo Theravada nói riêng.

Cuối cùng, đêm trường đen tối mất chủ quyền của Sri Lanka cũng chấm dứt, thoát khỏi sự cai trị của vua Tamil (Ấn Độ) nhờ cuộc cách mạng của vua Vattagamani Abhaya đánh bại quân đội Tamil giành lại độc lập cho đất nước.

Phật pháp ngàn đời và cho đến mai sau

Phật giáo Sri Lanka trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc phát triển rực rỡ huy hoàng, có lúc cũng rơi vào sự diệt vong, Tăng đoàn biến mất. Vua Coranaga - con trai vua Vatagamani đã đốt phá 18 ngôi chùa không giúp đỡ ông chống lại cậu ruột của mình là vua Mahaculika Mahatissa. Tuy nhiên nhiều vị vua có công lao lớn đối với Phật pháp như vua Bhatikabhaya bảo trợ chư Tăng nghiên cứu Tam tạng giáo điển, vua Mahadathika Mahanaga (67-79) là quốc vương thuần tín, bảo hộ Chánh pháp, hộ trì Tăng chúng tu tập, vua Vasabha (127-171) tu sửa chùa chiền, bảo tháp, xây dựng giảng đường và nâng cao đời sống cho Phật tử, Tăng Ni tu học, hoằng truyền Chánh pháp.

Tích Lan không chỉ có công lưu giữ Kinh tạng Nguyên thủy mà còn đóng góp rất lớn vào nền văn học Pali cho Phật giáo. Nhiều nhà học giả Pali lỗi lạc, thông tuệ đã để lại nhiều tác phẩm Phật giáo kinh điển, quý giá và có giá trị cho đến tận ngày hôm nay. Một trong những học giả nổi tiếng lỗi lạc ấy là nhà đại luận gia Buddhaghosa từ Ấn Độ đến cư trú trong chùa Mahapadhanaghara - chi nhánh của chùa Mahavihara (Sri Lanka) đã phiên dịch những luận sớ từ tiếng Sinhalese ra tiếng Pali (Mahavamsa, xxxvii, trang 244). Buddhaghosa cũng là tác giả của bộ Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) nổi tiếng, uyên thâm. Những bộ sớ giải bằng tiếng Pali, những tác phẩm của ngài đã làm giàu có phong phú kho tàng văn học Pali, nâng tầm Sri Lanka trở thành cái nôi nghiên cứu, học thuật Phật giáo Theravada số một thế giới cho tới tận hôm nay.

Triều đại Polonnaruwa đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và phát triển rực rỡ nền văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật Phật giáo Sri Lanka do vua Vijayabhahu I giành lại độc lập chủ quyền từ năm 1235-1236 qua 16 đời vua thay nhau trị vì.               

Từ thế kỷ thứ XI đến thế kỷ thứ XV, các triều đại vua chúa đã thi hành các công cuộc chấn hưng Phật giáo, trùng tu xây dựng chùa chiền, tổ chức đại giới đàn và giảng dạy Tam tạng cho Tăng Ni tu học. Sau triều đại vua Parakramabahu I, Phật giáo rơi vào giai đoạn suy thoái trở lại, có lúc Tăng đoàn hoàn toàn bị mất đi trên đảo quốc, công cuộc phục hưng và bảo tồn Phật giáo được đặt ra và thi hành triệt để. Vua Buvanekabahu thỉnh phái đoàn 22 Tỳ-kheo từ Miến Điện (Myanmar) đến Sri Lanka truyền giới nhằm khôi phục Tăng đoàn và được nhà vua tiếp đón nồng hậu, trọng thể.

srinlanka2.jpg
Chùa Xá Lợi Răng Phật - Maligawa, toạ lạc tại Kandy, nơi tôn thờ xá-lợi răng của Đức Phật. Xá-lợi răng Phật cùng với bình bát được xem là 2 món bảo vật thiêng liêng của quốc gia gắn liền với vận mệnh dân tộc Sri Lanka



Dưới thời kỳ đô hộ của quân Bồ Đào Nha (1505), quân đội Hà Lan cũng như dưới quyền đô hộ của thực dân Anh, Phật giáo có lúc gặp pháp nạn và suy thoái, công cuộc chấn hưng Phật giáo luôn được thực thi và quan tâm. Đại đức Mohottiwatte Gunananda, đại tá Olcott, Anagarika Dharmapala, Sir Jayatillake, Senanayake, de Silva là những người có công lao trong công cuộc chấn hưng Phật giáo, giúp Phật giáo vượt qua thời kỳ khó khăn và vững mạnh trở lại.

Dù trải qua bao thăng trầm, biến động nhưng với lòng tin, niềm yêu quý Phật giáo, người dân và vua chúa Sri Lanka qua các triều đại thà chấp nhận hy sinh quốc gia để bảo tồn Phật pháp cho đến nay. Sri Lanka đã thành công trong việc duy trì và bảo vệ được tài sản vô giá thiêng liêng của dân tộc: Phật pháp. Một khi người dân Sri Lanka vẫn một lòng nương tựa và bảo vệ Phật pháp, gìn giữ truyền thống văn hóa ngàn đời của tổ tiên, cha ông để lại thì Phật giáo sẽ còn có mặt và phát triển mãi cho đến mai sau.


Thích Đồng Tâm
https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=5FD489

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2017(Xem: 7604)
Lịch sử Phật Giáo qua tem bưu chính, Trần Thanh Lý biên soạn
08/06/2017(Xem: 6531)
Ngũ Tổ Tự là đạo tràng hoằng pháp của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, là một trong những ngôi đại già lam quan trọng của Phật Giáo thuộc địa khu Hán tộc. Chùa được kiến lập vào năm 654 (Vĩnh Huy [永徽] 5) nhà Đường. Sau khi Hoằng Nhẫn khai sáng đạo tràng tại Đông Sơn (東山), gây chấn động toàn quốc, môn đồ thường trú đương thời có khi lên đến cả ngàn người. Từ khi Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705) tức vị, phật giáo được xem trọng hơn.
20/04/2017(Xem: 7556)
Với tôi, tiếng Nhật là ngoại ngữ thứ 3 mà tôi phải học (sau tiếng Anh và tiếng Pháp) vào năm 1972 khi tôi mới đến Nhật. Lúc ấy hầu như tôi không biết một tiếng Nhật nào cả. Là một Tăng Sĩ của Phật Giáo Việt Nam, năm 1971 sau khi học xong Trung Học Đệ Nhị cấp tại Việt Nam, vì thích đi du học tại Nhật Bản nên tôi liền đến Tòa Đại Sứ của Nhật tại miền Nam Việt Nam để tìm hiểu và nộp đơn xin du học. Kết quả là vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 tôi đã đến Nhật.
26/12/2016(Xem: 5901)
Đạo Phật đang phát triển nhanh chóng tại Úc Châu, nơi các Hội đồng Phật giáo không kịp đào tạo các giáo viên thiện nguyện cho các trường công để đáp ứng làn sóng học sinh muốn tìm học về tôn giáo hòa bình này. Nhiều trường công lập Úc châu có tiết học dài 30 phút về tôn giáo, trên nguyên tắc không phải là truyền giáo nhưng là
26/12/2016(Xem: 8787)
Châu Phi cho đến bây giờ vẫn là lục địa đen nghèo đói, bệnh tật và lạc hậu trong con mắt thế giới. Nhưng có một góc khác của châu Phi ít có người biết đến Phật giáo ở Châu Phi. Phật pháp đã được ươm mầm trên mảnh đất khô cằn Châu Phi, người dân bắt đầu biết đến Phật, Pháp và Tăng, tuy nhiên có những chuyện Phật bi hài chỉ có ở lục địa đen mà không thể có ở những xứ khác.
09/11/2016(Xem: 9461)
Có khoảng 250 Đại Biểu chính thức của Hội Đồng Điều Hành Tăng Gìa Thế Giới gồm 36 Quốc Gia về Đài Bắc, Đài Loan tham dự Hội Nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 vừa qua. Hòa Thượng Thích Như Điển là thành viên của Ủy Ban Nghiên cứu và phát triển Phật Giáo trên thế giới cùng với đông đảo chư Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam cũng đã có mặt trong những ngày trọng đại nầy.
09/06/2016(Xem: 9451)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 31721)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
01/05/2016(Xem: 5808)
Tỳ Kheo Ni Thubten Chodron trở thành vị nữ tu sĩ Phật Giáo kể từ năm 1977. Lớn lên tại Los Angeles, ni trưởng tốt nghiệp với bằng danh dự trong ngành lịch sử từ Đại Học UCLA và tốt nghiệp ngành giáo dục tại Đại Học USC. Sau nhiều năm nghiên cứu và dạy Phật Học tại Châu Á, Châu Âu, và Hoa Kỳ, ni trưởng trở thành người khai sơn và trú trì Tu Viện Sravasti Abbey tại Tiểu Bang Washington
27/12/2015(Xem: 5190)
Thiên Đồng Thiền Tự (天童禅寺) nằm tại làng Thiên Đồng ở dưới chân núi Thái Bạch của Ngân huyện, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang và được gọi là "Đông Nam Phật Quốc-東南佛國" hay “Ninh Ba Thiên Đồng Thiền Tự Pháp Vân Tuệ Nhật Thiên Phật Thiên Tăng- 寧波天童禪寺法雲慧日千佛千僧” vì là một trong năm Tòng lâm lớn nhất Trung Quốc. Ngôi Già lam Cổ Tự được kiến tạo vào đầu thế kỷ thứ IV, đời Tây Tấn năm Vĩnh Khang Nguyên (300), ban đầu chỉ là một Thảo am trên diện tích rất nhỏ nhưng theo thời gian đã lên đến 45 nghìn mét vuông, có đến khoảng 20 quần thể kiến trúc cổ như Thiên Vương điện, Đại Hùng Bảo điện, Thiên Phật các, Ngự Thư lâu, Hồi Quang lâu, Phản Minh lâu, Chung lâu, Pháp đường, Lục Thảo đường, Giới đường, La Hán đường . . . Điện đường, Lầu, Gác, Phòng liêu có đến 30 tòa, gồm 999 gian điện thất rất quy mô hùng vĩ. Hiện còn 730 gian, diện tích 7.640.000 mét vuông, diện tích xây dựng 28.800 mét vuông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]