Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di sản văn hóa của Koreoy Cao Ly Đại Tạng Kinh

10/04/201313:31(Xem: 4746)
Di sản văn hóa của Koreoy Cao Ly Đại Tạng Kinh

DI SẢN VĂN HÓA CỦA KOREOY

CAO LY ĐẠI TẠNG KINH

Thích Vân Phong sưu tầm

Khi Koryeo đang chịu cảnh cực khổ vì quân Mông Cổ xâm lược Koryeo, người Koryeo đã khắc lẽ phải trên gỗ. Cứ khắc một chữ trên gỗ là người Koryeo đã cúi lạy ba lần. Hơn 50 triệu chữ và kiểu khắc chữ của toàn bộ các chữ đều giống nhau y như từ một người viết. Cũng không có chữ nào bị lỗi và bị bỏ sót. Đây chính là ‘Cao Ly Đại Tàng Kinh’. Nó là Đại Tàng Kinh cổ nhất hiện đang tồn tại trên thế giới.

Tháng 3 năm 1999 Thủ Tướng Nhật Un Chu Ik Chi đã đến thăm Hàn Quốc, lúc đó ông rất mong muốn trực tiếp ngắm một di vật đặc biệt của Hàn Quốc, đó chính là Cao Ly Đại Tạng Kinh tại Chùa Hải Ấn (Hae In Sa) . Đây không phải là điều đặc biệt Nhật Bản rất quan tâm đến Cao Ly Đại Tạng Kinh. Từ lâu, đã không ngừng yêu cầu Hàn Quốc tặng cho Nhật Bản Cao Ly Đại Tạng Kinh, kể từ khi Cao Ly Đại Tạng Kinh được hoàn thành vào thời kỳ cuối Koryeo. Sau đây là giải thích của Giáo sư Kim Chung Hyeon khoa Hàn Quốc, Viện Nghiên cứu Chung Huyeon Hàn Quốc :

Nhật Bản cũng đã cố gắng nhiều lần sản xuất Đại Tạng kinh nhưng đã thất bại trong khoản 150 năm từ thời kỳ đầu Cheo Seon vấn đề

Ngoại giao quan trọng nhất giữa Hàn Quốc và Nhật Bản là Đại Tạng kinh. Trong thời gian đó Nhật Bản khoảng 80 lần yêu cầu Hàn Quốc tặng cho Nhật Bản Đại Tạng kinh, cuối cùng Nhật Bản đã sản xuất Tân Tu Đại Tạng Kinh và trước Cao Ly Đại Tạng Kinh vào đầu thế kỷ 20. Tại sao Nhật Bản lại quan tâm đến Đại Tạng Kinh như vậy ? Đại Tạng Kinh là gì ? Giáo Sư Kim Chung Hyeon giải thích tiếp :

Đại Tàng Kinh được gọi là ‘Tripitaka’ bằng tiếng Phạn. Giới Phật giáo sử dụng từ này với ý nghĩa là sách Phật giáo. Tên chung của tất cả các cuốn sách Phật giáo là Tam Tàng bao gồm Kinh, Luật và Luận. Kinh là giáo lý do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giáo, Luật là kỷ luật của Phật và Luận là bài luận của nhiều nhà đại học giả Phật giáo về Kinh và Luật.

Những quốc gia tin vào Phật giáo xem việc sản xuất và bảo quản Đại Tạng Kinh như là một vinh dự và tin rằng việc đó có thể giúp Phật đảm bảo an ninh quốc gia. Đại Tạng Kinh đầu tiên bằng tiếng Hán đã được sản xuất tại nhà Tống từ năm 972 và việc này mất 11 năm. Nhưng Đại Tạng Kinh này bị biến mất khi nhà Kim xâm lược nên hiện nay không tồn tại. Tuy nhiên, Đại Tạng Kinh này có ảnh hưởng tới Đại Tạng Kinh đầu tiên của Koryeo là ‘Sơ Điêu Đại Tàng Kinh’.

Koryeo đã sản xuất Đại Tạng Kinh 2 lần. Đầu tiên, Koryeo đã bắt đầu sản xuất Đại Tạng Kinh vào năm 1011 khi bị Khitan tấn công Koryeo để dựa vào Phật bảo vệ quốc gia khỏi bị kẻ thù xâm lược. 77 năm sau, năm 1087, Koryeo đã hoàn thành Đại Tạng Kinh có khoảng 6 nghìn bản. Nhưng nhiều bản bị cháy khi Mông Cổ tấn công Koryeo vào năm 1232.

Vì Mông Cổ xâm lược Koryeo, lãnh thổ Koryeo bị tàn phá và người dân Koryeo bị rơi vào cảnh khốn khổ tột cùng. Đặc biệt, sau khi người cầm quyền Choi Woo của chính quyền quan võ đã dời đô về đảo Ganghwoa, người dân Koryeo không tin vào triều đình Koryeo. Để khắc phục tình hình như vậy, Choi Woo đã đưa ra một giải pháp.

Cao Ly Đại Tạng Kinh’ có tính chất bảo vệ quốc gia để ngăn ngừa cuộc xâm lược của quân Mông Cổ. Chính quyền dòng họ Choi có ý định là thông qua việc sản xuất Đại Tạng Kinh, sẽ đạt mục đích về chính trị là hợp nhất lực lượng nhân dân, phục hồi niềm tin của Koryeo về văn hóa, và tập trung lực lượng để chống quân Mông Cổ.

Về việc này, hợp tuyển ‘Đông Quốc Lý Tương Quốc Tập’ do nhà văn hoá Koryeo, Lee Kyu-Bo viết giải thích như sau : Khitan đã tấn công Koryeo khi Hiển Tông, Vua thứ 8 Koryeo cầm quyền. Lúc đó, Koryeo bắt đầu sản xuất Đại Tàng Kinh và Khitan đã rút quân ngay. Như vậy thì làm sao mà Mông Cổ không rút quân được?

Vào năm 1237, Koryeo đã bắt đầu sản xuất ‘Cao Ly Đại Tạng Kinh’. Việc sản xuất ‘Cao Ly Đại Tạng Kinh’ là sự kiện lớn nhất trong 500 năm lịch sử Koryeo. Quy mô ‘Cao Ly Đại Tạng Kinh’ như thế nào?

‘Cao Ly Đại Tạng Kinh’ đang được bảo quản tại chùa Hải Ấn (Haeinsa) bao gồm khoảng 80 nghìn bản. Một bản khắc gỗ dày 4 cm. Nếu chồng tất cả các bản khắc gỗ này thì sẽ cao khoảng 3.200m. Núi cao nhất tại Bán đảo Hàn Quốc, núi Baekdu cao 2.744m. Như vậy, Cao Ly Đại Tạng Kinh cao hơn cả núi Baekdu. Ngoài ra, ‘Cao Ly Đại Tạng Kinh’ cũng có chất lượng cao.

Nội dung của ‘Cao Ly Đại Tạng Kinh’ rất chính xác vì người phụ trách về sửa chữ trong việc sản xuất Đại Tạng Kinh đã so sánh các kinh Phật được xuất bản trong thời kỳ đó một cách nghiêm túc. Dựa trên quá trình nghiêm túc như vậy, Cao Ly Đại Tạng Kinh có nội dung chính xác và tổng hợp.

Giáo sư Kim Chung Hyeon cho biết :

Koryeo đã tham khảo Đại Tạng Kinh do nhà Tống và Khitan sản xuất. Vì vậy, tính chính xác là đặc điểm quan trọng nhất của Cao Ly Đại Tạng Kinh. Ngoài tầm quan trọng về lịch sử, Cao Ly Tạng Kinh cũng có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng vì nó đã phản ánh tư tưởng và văn hoá của Ấn Độ và của nhiều quốc gia Đông Nam Á.

Cao Ly Đại Tạng Kinh bao gồm 1.479 loại kinh Phật, trong đó có Đại Tạng Kinh do Trung Quốc, Tây Tạng, Khitan sản xuất và tiểu sử của các nhà sư nổi tiếng. Vậy, quá trình sản xuất Cao Ly Đại Tạng Kinh như thế nào?

Trước hết là việc chọn loại gỗ. Người Koryeo đã lựa chọn gỗ anh đào trên núi là nguyên liệu làm Đại Tàng Kinh. Gỗ anh đào không những dễ tìm khắp nơi trên toàn quốc mà còn dễ khắc chữ. Tuy nhiên, trước khi khắc chữ, gỗ anh đào phải được gia công. Ngâm gỗ vào nước biển trong 3 năm. Sau đó, vớt gỗ lên và phơi gỗ dưới bóng râm trong 3 năm. Làm như vậy thì gỗ mới không bị nứt và trở thành gỗ dễ khắc chữ. Sau đó, xẻ gỗ thành những tấm gỗ rộng 70cm, dài 42cm. Tiếp theo là quá trình khắc chữ trên gỗ. Quá trình này cần kỹ thuật cấp cao và tấm lòng chân thành. Cứ khắc một chữ là cúi lạy ba lần. Người Koryeo sản xuất Đại Tạng Kinh với tấm lòng chân thành. Mặc dù 30 người khắc chữ nhưng mặt chữ đẹp tuyệt y như một người khắc chữ và Cao Ly Đại Tạng Kinh được đánh giá là cũng có giá trị cao về mặt nghệ thuật. Sau khi khắc chữ xong, bọc 4 góc của tấm gỗ bằng đồng để đề phòng việc tấm gỗ bị cong vặn.

Cao Ly Đại Tạng Kinh hoàn thành xong theo quá trình như vậy vẫn duy trì kiểu dáng đầu tiên cho đến hiện nay. Tại sao Cao Ly Đại Tạng Kinh có thể duy trì kiểu dáng đầu tiên trong 750 năm?

Bí quyết là kho đặc biệt để bảo quản Đại Tàng Kinh với tên gọi là ‘Tàng Kinh Các’. ‘Tàng Kinh Các’ đã được xây dựng tại chùa HảI Ấn (Haeinsa) ở Hapcheon, Tỉnh Nam Gyeongsang vào năm 1488, thời kỳ đầu Chosun.

Năm 1995, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá (UNESCO) đã công nhận Tàng Kinh Các là di sản văn hoá thế giới.

Tàng Kinh Các là ngôi nhà dành cho Đại Tạng Kinh duy nhất trên thế giới và một trong số những ngôi nhà gỗ lớn nhất trên thế giới. Nó được thiết kế có thể tận dụng môi trường thiên nhiên. Tức là, nó có khả năng tự duy trì nhiệt độ và độ ẩm thích hợp.

Vậy Cao Ly Đại Tàng Kinh có ý nghĩa như thế nào đối với chúng tôi ?

Đa số kinh Phật bằng tiếng Phạn bị mất biến. Vì vậy, Cao Ly Đại Tàng Kinh có giá trị cao để giúp con người hiện nay có thể hiểu biết về tư tưởng Phật giáo của Ấn Độ và lịch sử văn hóa của Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Tây Tạng, Mông Cổ . . .

20.12.2008

Liên Đăng Quốc Tế Thiền Viện, Hàn Quốc

http://www.lotuslantern.net

---o0o---

Trình bày: Ana

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5534)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3826)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28262)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5653)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8383)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4806)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3614)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7244)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3954)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5167)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567