Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi (sách)

10/04/201313:06(Xem: 13590)
Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi (sách)

77pgiaoucchau-cover

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ÚC ĐẠI LỢI

(History of Buddhism in Australia)

Nguyên tác: Paul Croucher
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

---o0o---


Mục Lục

Lời người dịch:đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với thơ ca, mỹ thuật và đời sống tâm linh của người Úc. Cuốn sách theo dõi quá trình hình thành của Phật Giáo vào giai đoạn sơ khai, thế kỷ mười chín, cho đến việc thành lập những hội Phật Giáo đầu tiên vào đầu thập niên năm mươi của thế kỷ hai mươi, các phong trào học Phật của người Úc và sau cùng là những người tị nạn đến từ châu Á. Hơn thế nữa, đây là câu chuyện lịch sử, một bức tranh mà trong đó những nhân vật lập dị, những kẻ giả danh, những người nổi tiếng, đây đó vài bậc thánh thiện, làm cho cuốn sách hấp dẫn hơn là chỉ nói về những người Phật tử bình thường tại xứ sở Nam Bán Cầu này.

Paul Croucher, tác giả tập sách, sinh năm 1961, trưởng thành ở Sydney và lần đầu tiên tiếp xúc với sách Phật Giáo và Lão Giáo trong thời gian làm việc ở một tiệm sách vào năm 1979. Tuy chú tâm vào Thiền học nhưng các vị thầy đầu tiên của ông lại là Lạt Ma Tây Tạng, trong số đó là Lạt Ma Geshe Nyawang Leyden và Lạt Ma Yeshe. Năm 1983, ông viếng thăm Nhật Bản, Thái Lan, và những nơi có người Tây Tạng lưu vong ở miền Bắc Ấn Độ, và từ năm 1984, ông nghiên cứu lịch sử Á Châu và học tiếng Nhật ở đại học Monash (Melbourne), những điều quan tâm khác của ông là chơi bóng squash, đi dã ngoại và đọc sách của Henry David Thoreau (1817-1862), nhà văn Mỹ thuộc phái tự nhiên. Hiện tại ông đang viết luận án tiến sĩ về lịch sử Thiền Tông.

“ Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi” được xuất bản tại Sydney vào năm 1989, với gần 150 trang, bao gồm sáu chương: chương 1: Những chiếc bình trống; chương 2: Cứ như là từ một xứ khác: 1910-1952; chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956; chương 4: Đưa bông sen cho tảng đá: 1956-1971; chương 5: Những Người Đánh Trống Pháp 1971-1975; và chương 6: Bờ bên kia: 1975-1988. Như vậy, tập sách “ Lịch sử PG Úc” chỉ giới hạn đường đi lịch sử của mình từ lúc khởi nguyên đến năm 1988, tất nhiên từ năm 1981, Phật Giáo VN đã có mặt tại xứ sở này, và ít nhiều, Paul Croucher đã ghi lại những gì mà ông biết được, cảm nhận được về PGVN, kể ra cũng rất lý thú. Nhưng thôi, đó là chuyện dài về sau. Bây giờ kính mời độc giả tập san Pháp Bảo và trang nhà Quảng Đức trở về hơn một trăm năm trước để xem sự hình thành nền tảng của Phật giáo tại Úc như thế nào.

Lời giới thiệu:Phật Giáo đã lan truyền khắp Á Châu một cách chậm chạp, do bị hạn chế những khoảng cách địa lý lớn và những khó khăn trong việc ấn hành kinh sách. Tuy nhiên, sự phát triển của tôn giáo này cũng rất đáng chú ý, từ A Phú Hãn (Afghanistan) đến Nhật Bản, và từ Mông Cổ đến Nam Dương (Indonesia). Những tài liệu lịch sử ở các nước khác nhau như Tích Lan (Sri Lanka), Tây Tạng (Tibet), và Nhật Bản viết rằng các Tăng Ni của Phật Giáo du hành đã gây được sự quan tâm của triều đình ở những xứ này, và tiếp theo sau là sự quy y theo Phật Giáo của những người thuộc giai cấp thượng lưu.

Chỉ ở Trung Hoa khi được truyền vào, Phật Giáo gặp nền văn minh đã đạt trình độ cao rồi, tiếp đó Phật Giáo cũng đã lan tỏa khắp nơi, đặc biệt là trong đời nhà Đường (T’ang dynasty). Sự kiện này có thể được xem là sự phát triển chính thức của Phật Giáo, nhưng còn có nhiều hình thức truyền bá khác, có tính cách dân dã hơn, qua các tăng ni và Phật tử tại gia làm việc cách xa triều đình và những hoạt động của họ không được ghi nhận lại trong sử sách. Sự truyền bá Phật Giáo ở Úc Châu cũng giống sự truyền bá này, nhưng có một điểm khác biệt quan trọng là trong thời đại của chúng ta, sách được sản xuất một cách dễ dàng và rẻ tiền. Trước thập niên 1970, như tác giả Paul Croucher cho thấy, đa số những người Úc chú ý đến Phật Giáo đã chỉ được biết về Phật Giáo qua những cuốn sách, mà những cuốn sách này thì không giải đáp được những câu hỏi quan trọng của họ.

Các tín đồ Phật Giáo Úc đầu tiên và những người có cảm tình với Phật Giáo thường được thu hút qua phương diện duy lý – nhân bản của giáo lý Phật Giáo hay ngang qua sự trình bày đầy nghệ thuật của nền giáo lý này. Điều này có nghĩa là những phương diện lớn khác của Phật Giáo đã bị bỏ quên hoặc bị hiểu lầm. Chẳng hạn như giáo lý luân hồi đã bị những người quá duy lý xem là một giáo thuyết Á Châu không cần thiết, cùng với điều này, tất cả các nghi lễ đều bị chê là dấu hiệu của sự thoái hóa, và những nghi thức Phật Giáo thông thường như cúi lạy để tỏ lòng tôn kính, sự khiêm hạ và sự biết ơn đã bị xem là những việc không quan trọng được đặt thêm vào triết lý của Đức Phật. Pháp môn thiền của Phật Giáo và công dụng giải trừ tính kiêu căng ngã mạn của những pháp này cũng bị hiểu sai, và được dành cho rất ít thời giờ thực hành. Thật vậy, Phật Giáo vẫn chỉ là những lời nói để cho người ta trích dẫn khi cần thiết chứ không dẫn tới việc nhiếp phục tâm tán loạn. Kết quả là cuốn sách này bao gồm cả những giai đoạn đáng buồn của lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu. Có điều đáng khen là tác giả, tuy là tín đồ Phật Giáo, đã không che đậy những giai đoạn này, vì ông chỉ quan tâm tới tính chính xác về mặt lịch sử chứ không tô điểm thêm cho những sự kiện.

Tôi nhớ lại hai sự việc mà tôi đã gặp, có thể minh họa khuynh hướng sai lầm trong thời kỳ đầu của Phật Giáo Úc châu. Thứ nhất là có lần một người ồn ào, thích coi truyền hình và không bao giờ tham thiền, bảo đảm với tôi là người ta có thể đắc Niết Bàn vào lúc qua đời. Tất nhiên tôi mong người này nói đúng, nhưng trong tận thâm tâm, tôi thấy ý kiến này không phù hợp với lời dạy của Đức Phật rằng muốn chứng đắc Niết bàn, người ta cần phải tinh tấn tu tập. Sự việc thứ hai là trong một cuộc họp của một tổ chức Phật Giáo mà tôi được mời tham dự, phiên họp kéo dài từ tám giờ đến mười một giờ đêm, mọi người cãi nhau dữ dội, và điều đáng ngạc nhiên nhất là những người tham dự không có ai được mời một ly nước nào cả. Vì đã sống ở Thái Lan, nhiều năm, một xứ mà người dân rất hiếu khách, nên tôi đã ngạc nhiên vì sự vô tâm này. Tất cả mọi pháp môn tu tập theo giáo lý của Đức Phật đều bắt đầu với hạnh bố thí, hay lòng từ bi quảng đại, và nếu hạnh bố thí không phải là một phần của đời sống tu tập thì người ta khó có thể thành tựu được bất cứ pháp môn nào khác.

Trong thập niên 1980, quang cảnh đã thay đổi đáng kể, ngày nay có hơn tám mươi ngàn tín đồ Phật Giáo ở Úc Châu, thuộc hơn một trăm tổ chức Phật Giáo khác nhau. Các vị thầy Phật Giáo có khả năng đã định cư ở xứ này, và các nhóm đệ tử đã tụ tập xung quanh các vị, vì vậy bây giờ đa số các tín đồ chú tâm vào việc học và thực hành giáo lý một cách sâu xa. Tương lai tốt đẹp của Phật Giáo ở Úc Châu tùy thuộc vào việc sẽ có bao nhiêu vị thầy bản địa sẽ xuất hiện ở xứ sở rộng lớn này để chiếu ánh sáng Giáo Pháp cho những người có mắt được thấy.

Tỳ Kheo Khantipalo Thera

Viết tại Chùa Buddha Dhamma, tháng Mười năm 1988.

---o0o---

Vi tính: Cao Thân - Quảng Như
Trình bày: Nhị Tường
Bìa: Diệu An - Lê Hiếu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/11/2021(Xem: 3032)
Ủy ban Quốc hội và Nghị viện nước Cộng hoà Hồi giáo Pakistan đã bác bỏ một dự luật quan trọng để bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số. Điều này liên quan đến những người phụ nữ không phải tín đồ đạo Hồi, bị buộc phải cải đạo sang Hồi giáo, sau khi bị những người đàn ông tín đồ Hồi giáo bắt cóc.
23/11/2021(Xem: 6321)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
23/11/2021(Xem: 4391)
Buổi sáng ngày 17 tháng 11 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma là khách mời online của Cục Quản lý thảm họa quốc gia (NDMA) Ấn Độ, được chào đón bởi Giám đốc Điều hành Thiếu tướng Manoj Kumar Bindal. Ông đã cung thỉnh Ngài đăng lâm Bảo tọa chia sẻ pháp thoại với chủ đề "sự Thấu cảm và Tình thương giữa Bối cảnh Quản lý Thiên tai" (Love and Compassion in the Context of Disaster Management).
22/11/2021(Xem: 3756)
Theo thống kê của Bộ du lịch Vương quốc Phật giáo Campuchia, lượng du khách thập phương hành hương trên toàn quốc đã được ghi nhận trong ngày thứ 2 của Lễ hội Té nước. Cư sĩ Thong Khon, Bộ Trưởng Bộ Du lịch Vương quốc Phật giáo Campuchia cho biết, trong ngày thứ 2 của Lễ hội Té nước, tại các địa điểm du lịch khác nhau trong của nước đã thu hút 330.000 người. Ngoài khách du lịch trong nước, cũng có một số khách du lịch nước ngoài được ghi nhận.
21/11/2021(Xem: 3751)
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chế tác một "bản sao siêu tuyệt" bức tranh trong hang động thế kỷ thứ 7 và hai bức tượng Phật Bamiyan bị Taliban phá hủy, sử dụng kết hợp các kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật số mà họ hy vọng sẽ cứu vãn "linh hồn" của tác phẩm cho các thế hệ tương lai.
21/11/2021(Xem: 2923)
Gần đây, nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hạ lệnh đóng cửa Trường Phật học Gedeng, thuộc Tu viện Ganden Rao Denglangjie (壽靈寺), huyện Luhuo, châu tự trị dân tộc Tạng Garzê, tỉnh Tứ Xuyên, với lý do vi phạm luật sử dụng đất và thiếu cơ sở pháp lý liên quan, đồng thời hạ lệnh phá dỡ trường Phật học. Các lớp học và ký túc xá của trường, cưỡng bức toàn bộ học sinh phải trở về tư gia của họ.
18/11/2021(Xem: 2833)
Theo truyền thông quốc gia Phật giáo này đưa tin, vào ngày 14 tháng 11 vừa qua, Lễ hội Kathina cấp Quốc gia Dưới sự Bảo hộ và chủ trì của Tổng thống nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka Cư sĩ Gotabaya Rajapaksa, sự kiện được tổ chức tại các cơ sở tự viện Phật giáo Miyugunarama, Raja Maha Viharaya, Colabagama, Kurunegala.
18/11/2021(Xem: 4706)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
16/11/2021(Xem: 3561)
Viên Hoán Tiên (1887-1966), chính trị gia, nhà quân sự, vị Trưởng lão Cư sĩ Thiền Tông ngộ đạo nổi danh một thời ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa, ông đã kiến lập "Tịnh xá Duy Ma" (维摩精舍) ở Thành Đô, nơi ông tụ chúng giảng dạy Phật học và dạy thực hành thiền định, hóa độ một phương, tứ chúng đều ngưỡng mộ. Ông là vị Trưởng lão Thiền sư Cư sĩ nổi tiếng được coi là một nhân tố chính trong công cuộc phục hưng Phật giáo Trung Hoa. Những tác phẩm của ông được biên soạn, hiệu đính bởi đồ đệ thượng thủ xuất sắc Nam Hoài Cẩn như tác phẩm "Duy Ma Tinh Xá Tùng Thư" (維摩精舍叢書), "Viên Hoán Tiên Trước Thuật Tập" (袁煥仙著述集), "Linh Nham Ngữ Tiết" (靈巖語屑).
14/11/2021(Xem: 5709)
Vào ngày 11 tháng 11 vừa qua, Cư sĩ Mã Anh Cửu, cựu Tổng thống Đài Loan và đoàn tùy tùng của ông đã thân lâm viếng thăm Phật đà Kỷ niệm quán (佛陀紀念館), và thưởng ngoạn "Triển lãm đặc biệt Con đường Hải tuyến Phật giáo & Nghệ thuật Truyền thông Mới" (佛教海線絲綢之路&新媒體藝術特展) và kịch trường tương tác 360 độ để có tự thân trải nghiệm. Sau chuyến thăm thực tế này, Cư sĩ Mã Anh Cửu nói rằng, trước đây ông đã nghe nói về cuộc triển lãm này, quả thật là "Thật tuyệt vời!"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]