Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 1: Phật giáo thời vương triều Cấp Đa

05/01/201202:25(Xem: 4917)
Tiết 1: Phật giáo thời vương triều Cấp Đa

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG XI
VƯƠNG TRIỀU CẤP ĐA

VÀ PHẬT GIÁO SAU VƯƠNG TRIỀU NÀY

TIẾT I. PHẬT GIÁO THỜI VƯƠNG TRIỀU CẤP ĐA

Sự hưng suy của Vương triều

Vương triêu Cấp Đa được lập nên vào năm 320 sau Công nguyên, bởi vua Chiên Đà La Cấp Da (Chánh Cần Nhật Vướng). Đóng đô tại thành Hoa Thị, thống lĩnh cả khu vực trung Ấn Độ, vị vua đời thứ hai là Sa Mổ Đà La(1), tức vua Tân Nhật, ông chính phục cả đông bộ và nam bộ Ấn Độ. Đến vị vua thứ ba của vương triều này là vua Chiên Đà La II(2), ông đem quân tấn công và xâm lược cả tây bộ và bắc bộ Ấn Độ, thống lĩnh cả vùng bình nguyên Ấn Độ và một bộ phận của Bàng Gia Phổ, gồm luôn địa vức của bán đảo Gia Đê A Đê Nhĩ, đây là thời đại toàn thịnh của vương triều Cấp Đa.

Nhưng mặt khác, là thế kỷ thứ V tây lịch, tộc người Bạch Hung Nô (tức tộc người Ephihal) luôn thực hiện chính sách tầm thực về phía tây bắc Ấn Độ, đầu tiên họ đánh chiếm nước Kiền Đà La. Từ sau khi vua Phật Đà Cấp Đa (Buddha - gupta) của triều Cấp Đa chết đi, thì vào năm 500 tây lịch hoặc trước đôi chút, có Thổ Lạp Ma Na (Toramàna) của tộc Bạch Hung Nô, thừa lúc triều Cấp Đa bị nội loạn bèn đánh chiếm vùng trung Ấn Độ. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự băng hoại của vương triều Cấp Đa. Và rồi người con của Thổ Lạp Ma Na là Ma Hê La Cự La (Mihirakura, 502-542 tây lịch) trở thành ông vua của vùng trung Ấn Độ. Cũng trong thời gian này, vua Đa Thâu Đà Nhĩ Man (Yasùodharman) của nước Ma Lạp Bà khởi quân đánh đuổi Ma Hê La Cự La, khiến ông vua này phải bỏ vùng Trung Ấn chạy đến Ca Thấp Di La, đó là năm 528 tây lịch. Địa phương Trung Ấn lại được chi duệ của vương triều Cấp Đa cai quản, dù chỉ còn lại một vùng đất hẹp thuộc địa phận Ma Yết Đà và được xem như một nước chư hầu. Đấy là sự kế tục của vương triều Cấp Đa thời hậu kỳ(3)

Ở mạn nam Ấn Độ, sau khi vương triều Án Đạt La bị diệt vong, lại có tộc người Ba La Kỳ (Pallava) chiếm cứ vùng Kiến Chí Bổ La (Kànõcipura) và lập nên vương triều Ba La Kỳ, vào năm 225-900 tây lịch.

- Bà La Môn giáo phục hưng

Nét văn hóa đặc sắc của vương triều Cấp Đa đó là chủ nghĩa phục cổ của Bà La Môn giáo. Từ thời vua Ca Nị Sắc Ca cho đến trước khi vương triều Cấp Đa bị diệt vong, trong khoảng thời gian bốn trăm năm, từ thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ năm tây lịch, trong thời gian này Ấn Độ không có giặc ngoại xâm, chủ nghĩa phục hưng của Bà La Môn giáo cũng dựa vào thế lực của vương triều Cấp Đa mà bộc khởi và đạt đến cực thịnh. Từ thời vua A Dục trở lui, do sự phát triển của Phật giáo đã trở thành truyền thống tín ngưỡng và thâm nhập vào tầng lớp hạ lưu của xã hội, trước tình hình như vậy nên Bà La Môn giáo cũng trải qua những chỉnh lý, tu chính, và kết hợp theo thông tục tín ngưỡng và thâm nhập vào tầng lớp hạ lưu của xã hội, trước tình hình như vậy nên Bà La Môn giáo cũng trải qua những chỉnh lý, tu chính, và kết hợp theo thông tục tín ngưỡng dân gian của phái Thấp Bà, là sùng bái Duy Tu Nô, tạo thành tư thái Tân Ấn Độ giáo (Hinduism) và khởi sự phục hưng. Tân Ấn Độ giáo là sự kết hợp giữa nền văn minh của dân tộc Nhã Lợi An với văn hóa của dân tộc đầu tiên đến Ấn Độ, nhưng khởi nguyên là từ “Bạc Già Phạn Ca” trong “Đại Chiến Thi” của kinh Vệ Đà. Thời ấy Phật giáo Tiểu thừa càng lúc càng biến thành tư tưởng học thuật hóa, trong khi đó nội bộ Phật giáo lại diễn ra cuộc tranh chấp ưu liệt, cao thấp về nghĩa lý, và ngày càng xa rời những sinh hoạt của dân gian về mặt tín ngưỡng mang tính đại chúng. Chưa nói là sự phục hưng của Ấn Độ giáo đặt cơ sở trên tín ngưỡng dân gian đã được thông tục hóa; cạnh đó các nhà Ấn Độ giáo họ cũng tham cứu triết lý Phật giáo để bổ sung những gì họ thiếu, nhằm cứu vãn trước nguy cơ có tính thời đại này mà Đại thừa Phật giáo xuất hiện.

Dưới triều Cấp Đa, Phạn ngữ cổ điển (Classical Sanskrit) được phục hưng, và được coi là thứ ngữ văn có nhiều công dụng. Điều này liên quan đến sự phục hưng của Bà La Môn giáo; công tác dịch và viết Phật điển Đại thừa bằng Phạn văn được hoàn thành, đại loại cũng có quan hệ đến sự phục hưng Phạn ngữ dưới thời của vương triều Cấp Đa.

Về mặt tín ngưõng, các vị vua của triều Cấp Đa đều lấy Bà La Môn giáo làm cơ sở, chẳng hạn hai vị vua là Sa Mổ Đà La Cấp Đa, và Ca Ma la Cấp Đa Nhất thế (Kumàra- gupta), hai vị vua này cử hành lễ đại tế mã tự, dù tế lễ này từ vương triều Huân Ca đến giờ, tại trung Ấn chưa từng cử hành. Đây là sự thực hiển nhiên. Do đó, đối với Phật giáo, vương triều này có phần lãnh đạm.

Tuy nhiên, trong những vị vua của triều Cấp Đa cũng có vị biểu thị sự hảo cảm đối với Phật giáo, hoặc có vị tôn sùng Phật giáo chứ không phải không có. Như trong “Thế Thân Truyện” chép việc vua Chánh Cần Nhật là Hương Kha La Ma A Dật Đa từng cúng dường Bồ tát Thế Thân tam lạc sa kim và vua Tân Nhật là Bà La Dật Đê thì quy y với Bồ tát Thế Thân. Ngoài ra, ngài Thế Thân còn được người con kế nghiệp của vua Tân Nhật và vương phi của vua thỉnh mời Ngài lưu ngụ tại A Du Xà (cung điện hoàng gia). Những việc này tuy chưa biết là có bao nhiêu sự thực, nhưng ít ra cũng phản ảnh đương thời vương thất của triều Cấp Đa là có hảo cảm đối với Phật giáo.

Ở phần trước có nói đến vị tướng của tộc người Bạch Hung Nô là vua Ma Hê La Cự La bị chinh phục, và buộc phải thối lui khỏi vùng trung Ấn. Người chinh phục là vua Da Thâu Đà Nhĩ Man của nước Ma Lạp Bà. Nhưng trong truyện ký của Huyền Trang, thì người đánh đuổi vua Hung Nô lúc ấy là vua Bà La A Điệt Đa Nhị thế (Bàlàdiya II) người hậu kỳ của vương triều Cấp Đa.

Trang 117, trong cuốn “Ấn Độ Thông Sử” của Chu Tường Quang, chép là hai vua liên hiệp với nhau để dánh đuổi, đồng thời mở lối thoát cho vua Hung Nô, có thể là phóng thích sau khi bắt được. Để kỷ niệm cuộc chinh chiến thắng lợi, vua Bà La A Điệt Đa bèn kiến tạo một ngôi đại Phật tự - đó là chùa Na Lan Đà rất nổi tiếng.

- Giáo nạn tại bắc Ấn Độ.

Vua Ma Hê La Cự La từ phương bắc xâm lược vào bắc bộ Ấn Độ; ông nhìn Phật giáo bằng con mắt cực đoan ghen ghét, và chỉ muốn hủy diệt Phật giáo, nên khi thế lực đủ mạnh, ông bèn lăng nhục Phật giáo bằng cách tàn sát. Có thuyết nói là sau khi ông được tha cho về lại bắc Ấn Độ, tức lãnh địa Ca Thấp Di La; tại đây ông ra sức hủy diệt chùa, tháp đạt đến con số 1600 ngôi. Cuốn “Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện(4)kể rằng, lúc bấy giờ có vị Tỳ kheo được người đời xưng tụng là Sư Tử đang làm Phật sự tại Kế Tân (tức Ca Thấp Di La) thì bị “Di La Quật” sát hại, pháp thống nhân đấy mà dứt. Di La Quật là lối dịch khác của Ma Hê La Cự La, có nơi lại dịch là Mật Hy Ha La (Mihirkula). Nhân sự kiện này, về sau các sử gia thường lấy vua Ma Hê La Cự La sánh với vua Bổ Sa Mật Đa La của vương triều Huân Ca.

- Chùa Na Lan Đà.

Theo “Đại Đường Tây Vực Ký”, quyển chín của Huyền Trang, thì chùa Na Lan Đà tính đến khi kiến tạo phần tiên khởi xong “cách sau Phật Niết bàn không lâu, vị tiên vương của nước này là vua Thước Ca La A Dật Đa (tiếng nhà Đường gọi là Đế Nhật) là người kính trọng nhất thừa, tôn sùng Tam Bảo, tìm nơi phúc địa để kiến tạo ngôi Già lam này”. Và qua các đời vua kế tiếp như vua Phật Đà Cúc Đa Hán dịch là Giác Hộ), vua Đát Tha Yết Đa Cúc Đa (Hán dịch là Như Lai), vua Bà La A Điệt Đa (Hán dịch là Huyễn Nhật), vua Phạt Xà Ca (hán dịch là Kim Cang) thay nhau xây dựng thêm cho đến vị vua thứ sáu là vua Giới Nhật mới thật sự hoàn thành. Nhưng dưới thời của triều Cấp Đa, ngoài vua Bà La A Điệt Đa của thời hậu kỳ chứ không phải là vị vua nào khác tham gia kiến tạo chùa Na Lan Đà, vì vua Giới Nhật là người của vương triều Phạt Đàn Na (tức Giới Nhật vương triều). Theo truyền thuyết của Tây Tạng, thì ngài Vô Trước, ngài Thế Thân cũng từng lưu trú tại chùa Na Lan Đà để hoằng thông đại pháp. Nhưng kinh sách Hán dịch chưa nghe nói đến sự việc này. Ngay như những ghi chép về cuộc Ấn du của Pháp Hiển và Trí Mãnh, cũng không thấy đề cập gì đến tên chùa Na Lan Đà.

Căn cứ sự khảo sát từ nhiều phía, thì ghi chép của Huyền Trang cho rằng “Sau Phật Niết bàn chẳng bao lâu” thì chùa Na Lan Đà được khởi tạo, điều này thiếu xác thực. Có thuyết cho rằng chùa Na Lan Đà do vua Huyễn Nhật thuộc hậu kỳ của vương triều Cấp Đa sáng lập. Sau khi cân nhắc, thuyết này có thể tin được. Theo tư liệu được tìm thấy, thì vị danh đức trú trì chùa Na Lan Đà đầu tiên là ngài Đức Huệ hoặc ngài Hộ Pháp, ngài Hộ Pháp sống vào khoảng từ năm 530 đến năm 561. Thời gian này rơi vào thời hậu kỳ của triều Cấp Đa. Từ năm 535 đến năm 730 tây lịch.

Thực ra, thì gốc gác của nền chùa Na Lan Đà là ngôi vườn Ám Ma La có từ thời đức Phật còn tại thế, và đức Phật cũng đã từng ở nơi này thruyết pháp trong thời gian ba tháng. Trước và sau khi Huyền Trang đến Ấn Độ, đúng vào thời vua Giới Nhật đang trị vì. Thời ấy chùa Na Lan Đà có hơn hai trăm thực ấp. Lúa gạo và tô lạc mỗi ngày dùng đến cả trăm thạch. Chùa có đến chín ngôi (công trình phụ), tọa lạc lên trên khu đất rộng bốn mươi tám nghìn mét vuông, tăng chúng thường trú đến một vạn người. Ngôi đại tự này của đất nước Ấn Độ đã khiến nhiều quốc gia phải ngưỡng mộ và nghiễm nhiên ngôi đại tự này trở thành học phủ tối cao, và duy nhất có một của Phật giáo.

Bảng danh sách liệt kê chư vị đại sư trú trì chùa Na Lan Đà có những vị sau: Đức Huệ, Hộ Pháp, Hộ Nguyệt, Kiên Nguyệt, Quang Hữu, Thắng Hữu, Trí Nguyệt, Giới Hiền, Trí Quang, Nguyệt Xứng và các luận sư như Đạt Ma Cúc Đa v.v... Huyền Trang tam tạng là người Trung Hoa đầu tiên lưu học tại chùa Na Lan Đà. Đồng thời Huyền Trang đại chấn thanh danh cũng tại chùa này, những vị sư tăng người Trung Hoa nối tiếp Huyền Trang lưu học tại chùa Na Lan Đà có: Nghĩa Tịnh, Đạo Lâm, Huyền Chiếu, Đạo Sanh, An Đạo, Trí Hoằng, Đạo Hy, và Vô Hành. Những tăng nhân người Ấn Độ từng đến Trung Hoa hoằng pháp có Ba La Phã Ca La Mật Đa La, Địa Bà Ha La, Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí, Bát Lạt Nhã v.v... những vị này cũng từng cầu học tại chùa Na Lan Đà.

Những vị danh đức trú trì, đầu tiên họ biến chùa Na Lan Đà thành học phủ thịnh hành, của Duy thức học phái, và sau đó họ khiến chùa Na Lan Đà thành học phủ của Đại thừa Mật giáo.

- Tình hình chung của Phật giáo.

Cao Tăng truyện quyển ba, phần viết về “Pháp Hiển Truyện”(5)có chép về tình hình Phật giáo tại Ấn Độ thời bấy giờ, rằng cả Tiểu thừa và Đại thừa đều thịnh hành (Pháp Hiển đi Tây vức vào đời Đông Tấn, triều vua An Đế, năm Long An thứ ba, đến năm Nghĩa Hy thứ mười thì trở về lại kinh đô Thẩm Dương tức từ năm 399 đến năm 416 tây lịch).

Tại bắc bộ Ấn Độ có bảy nước, chép rõ là có hai nước học Tiểu thừa, một nước học thì phần lớn học Tiểu thừa, một nước học cả Tiểu và Đại thừa. Như vậy cá nước tại bắc Ấn Độ Tiểu thừa chiếm ưu thế.

Tại trung Ấn Độ có mười hai quốc gia và khu thành, ghi rõ là một nước học theo Tiểu thừa, một nước đa số học Tiểu thừa, một nước học cả về Đại thừa và Tiểu thừa, có thể cho là Đại thừa có vẻ lấn hơn.

Pháp Hiển đến Ấn Độ và lưu học Phật pháp tại thành Hoa Thị, thành này ở đông Ấn Độ. Những Thánh điển ông học được gồm: Tát Bà Đa Chúng Luật, Tạp A Tỳ Đàm Tâm Luận, Đản Kinh, Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh, Ma Ha Tăng Kỳ A Tỳ Đàm v.v... Như vậy, có thể thấy đương thời tại đông Ấn Độ cả Đại thừa và Tiểu thừa đều song hành.

Theo phân tích của pháp sư Ấn Thuận về tình hình chung của Phật giáo thời ấy như sau:

1. Thời Vô Trước, Thế Thân, từ nam Kiền Đà La chạy đến A Du Đà (A Thâu Đà) lấy nơi đây làm trung tâm; dọc theo biển phía tây đổ xuống bờ nam cùng tiếp xúc với học giả nam Ấn Độ. Đấy là hệ học giả Duy thức hướng hoạt động của họ về nam Ấn Độ.

2. Phía đông của Ma Kiệt Đà, theo những gì mắt thấy tai nghe của Pháp Hiển và Trí Mãnh, thì Phật giáo ở thành Hoa Thị, các học giả Đại thừa phải dựa vào Bà La Môn giáo để đứng vững.

3. Cuối biển phái nam đến nước Sư Tử (Tích Lan), thì Đại thừa và Thượng Tọa Bộ, cả hai cùng hoằng hóa ở khu vực này.

4. Thời ấy các học giả Ấn Độ đến Trung Hoa, như Đàm Vô Sấm, Cầu Na Bạt Ma, đa phần các kinh, luận do họ dịch ra Hán văn đều có liên hệ đến việc giới thiệu Chân thường duy tâm luận. Căn do của Chân thường Đại thừa, ấy là lấy từ “Tâm tánh bản Tịnh” của Đại Chúng Bộ và của hệ Phân Biệt Thuyết dung hợp với “bất tức bất ly uẩn ngã” của hệ Độc tử mà thành “Chơn thường ngã”(6).

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Đại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Đà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Đại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Đạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Độ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốc có pháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Đây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

lichsuphatgiaoando-06-04

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vi và pháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Đạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyên và mười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

lichsuphatgiaoando-06-05

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệt và độc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tương và liên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

lichsuphatgiaoando-06-06

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian pháp và xuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gian và xuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế gian và khí thế gian. Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gian mà an lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữu và trung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gian mà an lập thứ tự. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giới và vô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Định của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trí và vô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp trí và loại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần định và căn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơn là trải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyên mà ngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Độc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trước và hiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Đẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Đây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.

(1) Đại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Đạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Điển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Đại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Đại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Đại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Đại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Đại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Đại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Điển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Độ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2022(Xem: 3328)
Thế giới đang chứng kiến cuộc chiến khốc liệt tại Ukraine. Chiến tranh đã chính thức khởi động vào ngày thứ Năm, 24 tháng 2 năm 2022, khi quân đội Nga tấn công sâu vào lãnh thổ Ukraine. Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelensky, đã cùng nhân dân quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc khiến cho hầu hết các quốc gia và nhân dân trên thế giới cảm động và hết lòng ủng hộ. Chiến sự xảy ra suốt hơn 2 tuần qua khiến hơn 1 triệu dân Ukraine phải di tản qua các nước tự do láng giềng; hàng nghìn người dân vô tội đã bị tử vong hoặc thương vong dưới bom đạn từ quân đội Nga; nhiều thành phố, khu dân cư bị phá hủy nặng nề, và gần nhất, ngày 9 tháng 3 năm 2022, quân đội Nga đã ném bom vào một bệnh viện phụ sản ở thành phố cảng miền nam Mariupol của Ukraine khiến một số bệnh nhân phụ nữ, nhi đồng bị thiệt mạng hoặc bị thương.
11/03/2022(Xem: 2366)
Sự hiện diện của nền dân chủ tự do gắn liền với những tư tưởng tự do, bình đẳng có vẻ như là điều hiển nhiên và không thể đảo ngược. Nhưng những tư tưởng này còn mong manh hơn chúng ta nghĩ. Sự thành công của chúng trong thế kỷ 20 phụ thuộc vào những điều kiện công nghệ độc đáo có thể được chứng minh là không bền vững. Vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, chủ nghĩa tự do cá nhân bắt đầu mất đi sự tin cậy. Các câu hỏi về khả năng của nền dân chủ tự do cho tầng lớp trung lưu đã ngày thêm nhiều hơn; chính trị thì ngày thêm man rợ và càng ngày thêm có nhiều quốc gia có những lãnh đạo thể hiện xu hướng mị dân và độc tài. Nguyên nhân gây ra sự chuyển biến mang tính chính trị này thật phức tạp, nhưng chúng có vẻ như đan xen với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay. Công nghệ dành cho nền dân chủ thay đổi và cũng như trí tuệ nhân tạo (AI) đang phát triển, thậm chí nó còn có thể đi xa hơn nữa.
10/03/2022(Xem: 2235)
Hôm thứ Hai, ngày 07 tháng 03 vừa qua, người phát ngôn của Bộ Lễ nghi và Tôn giáo Vương quốc Campuchia Cư sĩ Seng Somuny xác nhận rằng, tính đến ngày 05 tháng 03 vừa qua, có đến 1.751 người đã mắc Covid-19 hầu hết là các chức sắc tôn giáo. Cư sĩ Seng Somuny cho biết, trong số những người bị nhiễm Covid-19 có 23 trường hợp tử vong và 1.264 người đã được chữa khỏi. Trong số những người bị nhiễm Covid-19, có 315 người Hồi giáo, 06 người tử vong và 305 người đã được chữa khỏi. Thiên Chúa giáo có 23 trường hợp bị mắc Covi-19, một người tử vong và 116 người đã được chữa khỏi. Trong số những người tôn giáo khác, có tổng cộng 38 nhà sư Phật giáo bị mắc Covid-19 và tất cả những người khác đều đã bình phục.
02/03/2022(Xem: 2566)
Đang bình yên vì đâu bom đạn nổ ? Do lòng tham hay cuồng vọng vô minh ? Được gì đây khi đánh mất thanh bình ! Nghiệp lực tạo đầy tang thương đổ vỡ !
02/03/2022(Xem: 2518)
Trắc nghiệm trong Nghiên cứu Chiến lược: Tại sao mã thông báo cho nữ Thủ tướng thứ ba của Ấn Độ Indira Gāndhī về vụ Thử nghiệm hạt nhân Pokhran 1 thành công; Bài kiểm tra đầu tiên có tên mã là "Đức Phật mỉm cười" (Buddha is smiling), được tiến hành vào tháng 5 năm 1974, trong khi các bạn suy nghĩ về nó, hãy chuyển sang tình hình nóng bỏng ở Ukraine. Vào thời điểm các bạn đang đọc tin này, quân đội của Nga đã tấn công áp sát rất gần thủ đô Kyiv của Ukraine. Câu hỏi thường được thắc mắc trong vài ngày qua và sẽ tiếp tục vang vọng trong nhiều thập kỷ tới, liệu Tổng thống Nga Vladimir Putin có dễ dàng uy hiếp Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, nếu quốc gia này không từ bỏ kho dự trữ vũ khí hạt nhân sau Bản ghi nhớ Budapest 1994.
01/03/2022(Xem: 3885)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3868)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
01/03/2022(Xem: 2916)
Tôi thật đau lòng như kim châm muối xát về cuộc xung đột đổ máu tại Ukraine. Thế giới của chúng ta luôn tương tác phụ thuộc lẫn nhau, đến mức xung đột bạo lực giữa hai quốc gia chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến phần còn lại của nhân loại thế giới. Chiến tranh đã lỗi thời - bất bạo động là cách duy nhất. Chúng ta cần phát triển ý thức về tính hợp nhất của nhân loại, bằng cách coi những người khác đều là huynh đệ cùng chung sống trong đại gia đình trên hành tinh này. Đây là cách chúng ta sẽ xây dựng một thế giới hòa bình hơn. Các vấn đề và bất bạo động được giải quyết tốt nhất thông qua đối thoại. Thực sự hòa bình có được nhờ sự hiểu hiểu biết, cảm thông và tôn trọng hạnh phúc của nhau.
26/02/2022(Xem: 2397)
Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc đầu tư kiến tạo Trường Đại học Nông nghiệp Công nghệ cao Borigaram (보리가람농업기술대학) tại làng Mwasonga, cách thành phố lớn nhất của Tanzania, TP.Dar es Salaam, khoảng 3 giờ đồng hồ đi xe hơi, Cộng hòa Thống nhất Tanzania, một quốc gia ở bờ biển phía đông châu Phi và đã đi vào hoạt động cho lớp học đầu tiên. Gồm 60 sinh viên được thi tuyển từ khắp Tanzania, họ được lưu trú tại Ký túc xá trong khuôn viên trường từ tháng 2 năm 2016 và đã đưa ra những học kỳ đầu tiên.
26/02/2022(Xem: 2122)
Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan phải hứng chịu các cuộc nội chiến kéo dài liên miên, chiến tranh tàn phá khốc liệt, hiện người dân nơi đây đang sống trong cảnh mùa giá lạnh cay đắng. Nhiều người đang phải chịu cảnh đói và rét, khẩn cấp cứu hộ quốc tế là tối cần thiết. Với từ bi tâm cứu trợ nhân đạo, Pháp sư Giác Thành, Phó Tổng Thư ký Quốc tế Phật Quang Sơn đặc trách vực Đông Nam Á, cùng đồng tâm hợp lực với tổ chức Hòa bình Thế giới Malaysia, Ngân hàng Đầu tư Kỹ thuật số Golden Horse, đã tiến hành thành lập Nhóm Sưởi ấm và Chăm sóc Nhân đạo để viện trợ nhân đạo cho nhân dân các địa phương Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567