Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Tinh tấn

14/03/201105:45(Xem: 7859)
4. Tinh tấn

ĐẠO LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

IV.SÁU BA-LA-MẬT

4. Tinh tấn

Với cái đức tinh tấn, này, người tu diệt sự giải đãi, biếng nhác trong tâm. Nhờ tinh tấn, sốt sắng, dũng mãnh, chuyên cần, người tu chẳng biết mỏi mệt chút nào hoặc về thân, hoặc về tâm. Những kẻ lười biếng tìm đủ dịp, lấy đủ cớ mà trốn tránh, chối từ phận sự. Hoặc họ bảo rằng sớm lắm, chưa phải lúc; hoặc họ bảo rằng muộn lắm, không thể làm. Hoặc họ nói nắng, nói nực, nói lạnh, nói mưa, nói đau, nói yếu, chê trách người vật, than phiền hoàn cảnh. Còn người tinh tấn thì bao giờ cũng nhặm lẹ, sẵn sàng, không bỏ qua dịp phải, chú ý đến cơ hội, rất tiết kiệm thì giờ, lại còn tự tạo nên những cảnh thuận tiện nữa. Không làm bằng tay thì làm bằng trí, không làm cho mình thì làm cho người, chẳng hề biết nghỉ ngơi như thường tình.

Người tinh tấn tỷ như dòng nước, dẫu cho nhỏ yếu, nhưng chảy mãi thì cũng xoi thủng được, làm mòn được hòn đá to. Kẻ giải đãi tỷ như người đào giếng, dầu có sức mạnh, nhưng đào được nửa chừng rồi ngán mà bỏ, thì làm sao có nước mà uống?

Người tinh tấn về đạo bao giờ cũng sốt sắng mà bố thí cho đời, lo cho chúng sanh về tài vật và về pháp lý. Người tinh tấn bao giờ cũng sốt sắng mà trì giới, lo cho thân tâm trong sạch, chẳng chút bợn nhơ vì sở dục. Người tinh tấn bao giờ cũng sốt sắng mà nhẫn nhục, cam chịu các sự đắng cay, khổ não, hoạn nạn, lãnh lấy các điều oan uổng vì chúng sanh. Người tinh tấn bao giờ cũng sốt sắng mà tham thiền, lắm người trọn đời chẳng ngủ, ngồi yên một chỗ mà định thần tu niệm. Cho nên tinh tấn cũng là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ. Thực hành tinh tấn tức là thực hành các hạnh nguyện kia; và thực hành tinh tấn cho hoàn toàn thì hành mấy nền đức kia cũng được hoàn toàn nữa.

Người tinh tấn có bốn đại nguyện mà trải qua nhiều đời đều tận tâm gìn giữ, thực hiện.

a) Bao giờ cũng quyết diệt các mối phiền não trong người, diệt các sự tham ác, sân hận, si mê. Tức là diệt thất tình: mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, tham; và lục dục.

Phiền não khi chưa phát khởi nơi ta, thì ta phải phòng bị xa lánh chúng nó trước. Đến chừng có cơ hội, chúng nó phát động nơi ta, xúi giục ta, thì ta phải diệt trừ chúng nó, vượt khỏi sức quyến rũ, sức chế ngự của chúng nó vậy.

Một đàng khác, chúng ta phải tu tập pháp lành. Khi trong tâm ta thiếu những đức lành, ta phải phát khởi những đức lành ấy. Và mỗi khi ta có được những đức lành nào, ta cố sức mà duy trì và bồi dưỡng chúng nó.

Xa lánh phiền não, vượt khỏi phiền não, phát khởi những đức lành, duy trì đức lành, đó là bốn phận sự hằng ngày của người tinh tấn chân chánh. Vậy tinh tấn tức là:

Điều ác chớ làm,

Điều lành giữ lấy.



b) Bao giờ cũng quyết học hết các pháp môn. Pháp Phật đã là vô tận, mênh mông, giải không cùng, nói không xiết, bao la, rộng lớn như cát sông Hằng. Song người tinh tấn quyết định phải cho thông hết mới nghe, dầu là pháp môn Hiển giáo hay là pháp môn Mật giáo, dầu là pháp môn thế gian hay là pháp môn xuất thế gian. Ngoài ra, người tinh tấn cũng học hỏi và nghiên cứu các pháp môn của ngoại đạo, các pháp thiện xảo về văn chương, khoa học kỹ nghệ, toán số, y học, âm nhạc, thiên văn v.v... Vì bậc đại Bồ-tát cần phải biết tất cả đặng tùy duyên mà độ đời. Chính Phật là bậc hiểu biết tất cả, vì ngài đã tinh tấn học hết các pháp môn vậy.

c) Bao giờ cũng quyết độ tất cả chúng sanh. Người tinh tấn sẵn lòng mà giúp người, cứu đời, không trừ bỏ một chúng sanh nào. Bao giờ người cũng hết sức lo cho chúng sanh. Trong khi tu học lục độ, người đã dũng mãnh đem lục độ ra mà độ chúng sanh rồi: Những lúc cần phải bố thí, thì người bố thí cho chúng sanh, đem thân thể mà cung phụng, đem tiền của mà chu cấp. Người cũng độ đời bằng sự trì giới, tự mình hộ trì giới luật dường như bảo châu, đem gương trì giới mà soi cho đời, dạy dỗ cho đời biết giới hạnh, phong hóa, đạo nghĩa. Người lại khuyên đời bằng sự nhẫn nhục, đem những lẽ nhu hòa thiện thuận mà giáo hóa những kẻ nóng nảy, tham mê. Người cũng dùng đức tinh tấn mà thực hiện trong đời, khiến người diệt trừ phiền não và tăng tấn đức lành. Người cũng tự mình thiền định, đắc pháp thiền định và nung chí cho những người tu học về pháp ấy. Người được trí huệ sáng suốt, đem sự sáng suốt của mình mà soi tỏ cho người khác, đem sự hiểu biết của mình mà khai hóa cho đời. Đó là tinh tấn mà làm hạnh tự độ độ tha, tự giác giác tha; tinh tấn mà độ cho vô lượng chúng sanh thành Phật trước mình. Bậc tinh tấn dùng các phương tiện trong lục độ mà độ cho chúng sanh trong khi mình còn tu học chớ chẳng chờ đến lúc mình thành Phật rồi mới độ sau. Vì thời kỳ đó còn xa, mà hiện thời chúng sanh vẫn đau khổ, mê lầm, mình há làm ngơ sao?

d) Bao giờ cũng quyết thành Phật. Người tinh tấn Đại thừa để cái mục đích mình vào sự thành Phật. Dõng mãnh mà thi hành giới luật, cố công mà học các pháp môn, gắng sức mà thẩm xét, tham thiền. Người tinh tấn hành tất cả lục độ một cách triệt để. Người bình tĩnh và sáng suốt mà thấy rằng mình có Phật tánh, Như Lai tánh. Người tự nhận rằng hiện thời mình là một đức Phật lý, một đức Như Lai lý, và trong một đời sau, về thuở tương lai thế nào mình cũng đạt cả lý và sự, chừng ấy mình sẽ lên ngôi Chánh giác, Phật, Như Lai, Thế Tôn.

Đó là bốn điều nguyện lớn, mà lúc nào người trì tinh tấn Ba-la-mật cũng dõng mãnh mà thi hành.

Trong kinh Pháp Hoa, đức Thích Tôn phán rằng ngài nhờ thọ trì tinh tấn mà chóng thành Phật. Có một đời kia, ngài với A-nan đều phát tâm Bồ-đề cùng một lúc, tức là hai người trong một lúc quyết ý tu cho thành Phật. Ngài bèn trì tinh tấn, A-nan lo hộ trợ pháp Phật. Từ buổi phát tâm tới sau, ngài quả quyết, phấn chấn trong sự tinh tấn, nên ngài đã thành Phật. Còn A-nan hiện làm Bồ-tát, cũng còn hộ trợ Pháp tạng, chứ chưa lên ngôi Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2011(Xem: 3198)
BAMIYAN, Afghanistan — Những hốc đá có thời chứa các tượng Phật Bamiyan khổng lồ giờ trống trãi trên mặt núi đá – một tiếng khóc thầm cho sự tàn phá dã man đối với thung lũng huyền thoại này và những quí vật một ngàn năm trăm năm tuổi, những tượng Phật đứng vĩ đại nhất một thời của thế giới.
30/12/2010(Xem: 3470)
Tứ Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
25/12/2010(Xem: 8121)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 5467)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/12/2010(Xem: 5514)
Có những người tuy không hiểu biết nhiều về Phật Giáo nhưng lại có phần nào quen thuộc với giáo lý bất bạo động và từ bi của đao Phật, những người này thường hay lầm tưởng rằng giới Phật tử đều ăn chay. Họ có phần nào ngạc nhiên pha chút thất vọng khi khám phá ra rằng rất đông Phật tử ở cả phương Đông lẫn phương Tây vẫn thường ăn thịt (ăn mặn), cho dù không nhất thiết là tất cả Phật tử ai ai cũng ăn thịt như vậy.
03/12/2010(Xem: 3645)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle – cũng là ông thầy dậy học mình – nói về Ấn-Độ như là một dải đất mênh mông xa tít mù tắp tận chân trời, nên cảm thấy hứng thú phải đi chiếm lấy và để đem nền văn minh Hy-Lạp reo rắc cho các dân bản xứ.
28/11/2010(Xem: 4694)
Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học.
23/10/2010(Xem: 12242)
Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy.
22/10/2010(Xem: 6348)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 5174)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567