Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Hóa thần: Đâu là sự bí mật của các vị?

19/01/201105:56(Xem: 11567)
Những Hóa thần: Đâu là sự bí mật của các vị?

TRÍHUỆVÀ ĐẠI BI

TenzinGyatso Dalai Lama thứ 14
Nguyêntác:Kindness, Clarity and Insight, Snow Lion Publications Ithaca NewYork USA 1990
BảndịchViệt: Thiện Tri Thức 2000 PL. 2543

NHỮNGHÓA THẦN:
ĐÂULÀ SỰ BÍ MẬT CỦA CÁC VỊ?**

TâyTạnglà một xứ sở có truyền thống văn hóa hoàn toàn đặcbiệt. Về vật chất, chúng tôi nghèo, nhưng gia sản tâm linhvà văn hóa chúng tôi giàu có. Chúng tôi có nhiều để dângtặng cho thế giới. Ví dụ, tôi biết vì chính tôi đã thử,rằng trong lãnh vực sức khỏe, y học của chúng tôi hoàntoàn hiệu quả, đặc biệt trong trường hợp những bệnhkinh niên. Vả lại, người Hoa đã không lầm ; mặc dầu họđã cố ý xóa bỏ văn hóa Tây Tạng, họ cũng giữ gìn toànbộ y học của nó ; chắc chắn y học đó khá có ích đểhọ quyết định bảo tồn và phổ biến sự sử dụng.

Nhữngđồ vật nghệ thuật là biểu trưng một văn hoá, nhưng đóchỉ là một phương diện. Cái quan trọng nhất không ở tronghội họa hay những diễn tả nghệ thuật khác, mà ở trongtâm thức con người. Khi một văn hóa làm sống động tâmthức của cả một dân tộc trong đời sống hàng ngày củahọ, đó là bằng chứng nó hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ,những người Tây Tạng nổi tiếng về sự vui vẻ của họ,đó là một trong những tính cách của chúng tôi. Chúng tôikhông biết điều đó, nhưng nhiều người ngoại quốc đếnthăm chúng tôi ở Ấn Độ thường nhận xét chúng tôi nhưvậy. “Đâu là sự bí mật của các vị ?” Đó là câu hỏithường xuyên lập lại về tính khí tốt đẹp của chúngtôi.

Tôiđã nghĩ rằng nó liên hệ với lý tưởng đại bi của mộtbồ tát, mà văn hóa Phật giáo của chúng tôi cho chúng tôinhiều kiểu mẫu. Dù có học hay không học, chúng tôi có thóiquen gọi mọi sinh vật là những mẹ những cha của mình :những từ này chúng tôi luôn nghe được ở xứ sở Tây Tạng.Ở đó, ngay cả người mà chúng tôi xem là một kẻ vô lạicũng chỉ có những chữ này trên miệng : “Mọi sinh vật,mẹ của tôi.” Tôi có cảm tưởng rằng sự đồng hóa nàyvới với một lý tưởng đại bi là nguồn mạch cho niềmvui sống của chúng tôi. Nó cho chúng tôi nhiều sức mạnhtrong đời sống hàng ngày, đặc biệt trong những tình thếnghiêm trọng.

Nhưngcác bạn có thể nói : “Làm sao những người Tây Tạng cóthể không ngừng nói đến lòng bi mẫn khi mà một số nhữngvị thần của họ có vẻ hung dữ như vậy ?”

Điềuđó như thế này. Trong Phật giáo, chư thiên – hay những thần– xếp thành hai loại, tùy theo họ là chư thiên thế gianhay chư thiên siêu xuất thế gian. Những kinh văn kể một sốđông chư thiên và một-nửa-thiên thuộc loại thế gian, ởtrong sáu loài sống họ cư ngụ qua lại từ địa ngục, ngạquỷ, súc sanh, người, một-nửa-thiên hay thiên, tùy theo sựlưu chuyển của họ.

Trongcõi dục có sáu loại thiên, và trong cõi sắc có bốn. Họthuộc về bốn trạng thái định và phân thành mười bảyloại khác. Trong cõi vô sắc, chư thiên có bốn loại. Và cuốicùng, có những loại sinh linh làm hại trong ngạ quỷ, một-nửa-thiênvà súc sanh mà chúng ta không tả chi tiết.

Bởivì chư thiên tạo thành nhiều nhóm, cần phân biệt rõ nhữngthần thế gian và siêu thế gian. Không có điều ấy, các bạncó thể lầm một thần địa phương với một thần của tantrayoga tối thượng. Một số thiên thuộc thế gian nắm quyềnsở hữu những cá nhân đặc biệt mà họ dùng như nhữngtrung gian ; họ không khác chúng ta, bởi vì họ cũng chịu sựbất lợi của tham lam và thù hận. Trong dòng các kiếp củachúng ta, chúng ta đã sanh trong hình dáng những sinh linh đó; và chính họ cũng đã biết những tái sanh làm người nhưchúng ta. Theo viễn cảnh Phật giáo, chúng sanh có thể mặclấy vô số hình thức, do vô số nghiệp tích cực hay tiêucực.

Nhữngthần siêu thế gian chia làm hai loại : những vị Phật vànhững vị Bồ tát đã đạt đến “con đường của cái thấycái chân thực” ; trong những vị sau có những vị xuất hiệnnhư những Bồ tát trong khi các ngài thực sự đã là nhữngvị Phật, và những vị khác thực sự là những Bồ tát.

Nhữngsinh thể của mức độ này thường biểu lộ dưới hình thứcnhững người bảo vệ, hộ trì như Mahakala, Mahakali…

Nhữngthần của những mạn đà la thuộc vào phạm trù siêu thếgian ; các vị đã đạt đến “con đường nơi không còn gìđể học hỏi nữa”, và là những vị Phật. Trong yoga tantra,người ta có thể thấy những mạn đà la trong đó có đếnngàn vị thần, họ là những hóa hiện của thần ở trungtâm. Trong mạn đà la Guhyasamaja, thuộc về tantra yoga tối thượng,người ta có thể thấy ba mươi hai thần linh tượng trưngnhững yếu tố tịnh hóa những hợp thể cấu tạo thành mộtcon người. Điều này giải thích rằng, mặc dầu nhiều thầnở trong mạn đà la, thì chỉ một vị thật sự ở đó màthôi.

Sựthực hành yoga về hóa thần chủ yếu nhắm một mục đích: thực hiện công trạng tối thượng là Phật tánh, cho cứucánh duy nhất là hoàn toàn và không giới hạn phụng sự tấtcả chúng sanh. Một cách tổng quát, con đường tantra gồmyoga về bất nhị, về cái sâu xa và về cái biểu lộ. Cáisâu xa là cái trí huệ sâu nhiệm thâm nhập sự bí mật củatánh Không vô tự tánh ; phương diện biểu lộ là vòng trònthiêng liêng trong đó trí huệ này đồng thời xuất hiện.Nhờ vào khả năng quán tưởng, tâm thức mặc lấy hình tướngcủa hóa thần, làm xuất hiện mạn đà la của hóa thần vàmọi thứ gồm trong lãnh vực sinh sống của hóa thần ; trongkhi khả năng kiểm nghiệm cũng của tâm thức này chứng nghiệmsự vô tự tánh của chúng.

Thựchành tantra yoga tối thượng có một tính cách rất đặc biệt,nó vượt khỏi những đường lối sáo cũ và kêu gọi, nhờcậy đến những mức độ rất vi tế của tâm thức. Vềchủ đề này, một đoạn của Tantra Guhyasamaja cho những chỉdẫn về ba thân “liên kết với trạng thái bình thường”,để chuyển hóa thành ba thân “liên kết với trạng tháiđang trên đường” ; ba cái sau này đến lượt chúng, làmnguồn gốc cho sự chuyển hóa thành ba thân của một vị Phật“liên kết với trạng thái Quả”.

Bathân liên kết với trạng thái bình thường trải nghiệm cáichết bình thường, xảy ra khi tịnh quang khởi hiện ; tươngứng với cái chết bình thường là Pháp thân, liên kết vớitrạng thái bình thường. Bấy giờ – trừ trường hợp táisanh vào cõi vô sắc – xảy đến trạng thái trung ấm, giaiđoạn giữa cái chết và sự sanh trở lại, tương ứng vớinó là Báo thân, liên kết với trạng thái bình thường. Đúnglúc thụ thai, bắt đầu một đời sống mới, tương ứngvới nó là Hóa thân, liên kết với trạng thái bình thường.

Cũngnhư thế trong chu trình hai mươi bốn giờ, giấc ngủ sâu đượcxem như là Pháp thân liên kết với trạng thái bình thường.Giấc mộng, như là Báo thân liên kết với trạng thái bìnhthường. Và khi thức như là Hoá thân liên kết với trạngthái bình thường. Những chu trình này của đời sống bìnhthường được dùng trên con đường đạo như là những câycầu để đạt đến những yếu tố tương ứng đặc biệtvới Phật tánh.

Sựthực hành này gồm trong yoga về hóa thần, nó phong phú bởivì sự làm việc quý giá trên những mức độ rất vi tếcủa tâm thức. Nó cho phép những tiến bộ nhanh chóng trêncon đường đạt đến Phật tánh.

Trongyoga này, hành giả tìm cách đạt đến mức độ cao nhất: chót đỉnh tối thượng của Phật tánh ; ở mức độ trung,người ấy thử đạt một trong tám thành tích chánh ; và ởmức độ thấp, anh ta thực hành sự làm cho bình an, sự khuếchtrương, sự chế phục, sự hàng phục bằng hung nộ, nhưngduy chỉ trong sự lợi lạc cho những người khác. Trong loạithiền định này, người ta kêu gọi đến những thần hòabình cũng như những thần hung dữ ; và các bạn sắp hiểunhững lý do của sự quá nhiều hình dáng này. Những kinh văndành cho Thanh Văn không cho một chỉ dẫn nào về việc sửdụng những xúc tình vào con đường ; ngược lại trong nhữngkinh văn của thừa hoàn thiện (Ba la mật đa thừa) của Bồtát, người ta tìm thấy những phương pháp chính xác về cáchthức khai thác năng lượng của tham muốn. Người ta biếnchúng thành một đồng minh nó làm tăng gấp mười khả nănggiúp đỡ hiệu quả người khác của chúng ta, ví dụ nhưcó nhà vua bồ tát đã sinh rất nhiều con cái để cứu chovương quốc mình.

Mậtthừa cũng dạy làm thế nào để rút ra sự ích lợi củathù ghét hầu tiến bộ trên đường đạo. Sự thực hànhnày được dùng ở giai đoạn thành tựu và không phạm đếnchút nào động lực đại bi thuần khiết. Cơn thịnh nộ khởiđộng bởi đại bi bấy giờ được hướng dẫn đến mộtmục tiêu đặc biệt, đó là một trong những kỹ thuật đượcdùng trong giai đoạn thành tựu. Nó dựa vào năng lực mạnhmẽ mà tâm thức sản sinh ra khi cơn giận nổ bùng trong tâmthức. Vậy thì, trong sự thi hành những hoạt động loại“hung nộ”, năng lực và quyền lực đóng một vai trò quantrọng. Những thần hung nộ vậy là để minh hoạ sự sửdụng cơn giận vào con đường giác ngộ. Những hóa thầnhung dữ và hòa bình được tượng trưng với những thuộctính khác nhau. Ví dụ, Chakrasamvara cầm một sọ người đầymáu : sọ người nghĩa là nó nắm giữ phúc lạc và máu tượngtrưng tâm thức của tánh Không. Sự liên hệ của sọ ngườivà xuất thần đến từ sự kiện rằng khi chảy lỏng, nhữnghạt căn bản kéo theo cái lạc tính dục ; vậy thì, theo chúngtôi, những hạt căn bản này ở nơi đầu. Ở đại học Virginia,một giáo sư y khoa cũng dạy rằng nguồn gốc của những xuấtthoát tinh khí nằm ở trong đầu.

Trongmột bối cảnh khác, cái sọ tượng trưng sự vô thường,và một xác chết là tính vô ngã. Khi năm cái đầu đã khôđeo vòng quanh cổ một thần siêu thế, phải thấy đó làmột nhắc nhở năm trí huệ tối thượng và năm vị Phậtnăm bộ. Những giải thích thì chi tiết để hiểu những hóathần hung nộ diễn tả cái gì.

Trongnhững lời tán tụng chúng tôi gởi đến các vị thần trongcác buổi nghi lễ, thường có nói rằng các vị không bao giờtách rời với Pháp thân và Từ Bi. Người nào ham thích thựctập những tantra mà không được trang bị lòng đại bi mạnhmẽ là điều kiện tiên quyết, nhất là trong sự thực hànhpháp hung nộ, sẽ mất nhiều hơn là được. Như một đạithành tựu giả Tây Tạng là Nam-ka-gyel-sen đã nói, nếu cácbạn lao mình vào sự thực hành những tantra mà không vớimột lòng bi bao la, nếu tình thương và sự thấu hiểu tánhKhông thiếu ở nơi bạn, thì do sự kiên trì trì tụng mộtthần chú hung nộ, các bạn sẽ rơi vào sự tái sanh trong hìnhthức một loại quỷ thần ác độc ham thích làm hại mọisinh linh. Những lời khuyên dạy này phải được tuân theosát từng chữ.

Cũngphải biết rằng sự thực hành đúng đắn yoga về nội khí– hay yoga hơi thở – là phức tạp và không phải không nguyhiểm. Bởi thế, có nói rằng sự thực hành tantra phải đượcgiữ bí mật.

Thậtdễ dàng nghiên cứu nghệ thuật Tây Tạng trong một việnbảo tàng hơn là đem nó vào thực hành trong thực tế.

* Cộngđồng Phật tử, Toronto.
[1]Trongphân tích này, cần khám phá cái ta và cơ cấu thân –tâm là một hay khác, hoặc cách tùy thuộc thân – tâm, hoặcthân – tâm tùy thuộc cái ta, hoặc cái ta là thân, và hoặccái ta là toàn thể thân – tâm.
**Bảotàng Newark.

 

 

 

 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2011(Xem: 4293)
Thông thường, truyền thọ giới pháp Bồ tát Du già, cần phải thỉnh ba vị Giới Sư làm Hòa thượng truyền giới, tức là: Đắc giới Hòa thượng (Đắc Giới Sư, đại diện cho Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni)...
09/01/2011(Xem: 7845)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
01/01/2011(Xem: 3737)
BAMIYAN, Afghanistan — Những hốc đá có thời chứa các tượng Phật Bamiyan khổng lồ giờ trống trãi trên mặt núi đá – một tiếng khóc thầm cho sự tàn phá dã man đối với thung lũng huyền thoại này và những quí vật một ngàn năm trăm năm tuổi, những tượng Phật đứng vĩ đại nhất một thời của thế giới.
30/12/2010(Xem: 3985)
Tứ Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
25/12/2010(Xem: 9543)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 6369)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/12/2010(Xem: 6511)
Có những người tuy không hiểu biết nhiều về Phật Giáo nhưng lại có phần nào quen thuộc với giáo lý bất bạo động và từ bi của đao Phật, những người này thường hay lầm tưởng rằng giới Phật tử đều ăn chay. Họ có phần nào ngạc nhiên pha chút thất vọng khi khám phá ra rằng rất đông Phật tử ở cả phương Đông lẫn phương Tây vẫn thường ăn thịt (ăn mặn), cho dù không nhất thiết là tất cả Phật tử ai ai cũng ăn thịt như vậy.
03/12/2010(Xem: 4135)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle – cũng là ông thầy dậy học mình – nói về Ấn-Độ như là một dải đất mênh mông xa tít mù tắp tận chân trời, nên cảm thấy hứng thú phải đi chiếm lấy và để đem nền văn minh Hy-Lạp reo rắc cho các dân bản xứ.
28/11/2010(Xem: 5328)
Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học.
23/10/2010(Xem: 13625)
Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]