Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành kính tưởng nhớ công hạnh của Sư Trưởng Hải Triều Âm

13/08/202412:45(Xem: 1539)
Thành kính tưởng nhớ công hạnh của Sư Trưởng Hải Triều Âm

 


su ba hai trieu am (1)su ba hai trieu am (2)





CÔNG HẠNH
CỦA SƯ TRƯỞNG HẢI TRIỀU ÂM



 

"Vu Lan – nhớ Tứ Trọng Ân" - âm thanh ấm cúng ấy đã trở về, báo hiệu mùa tri ân và báo ân của năm 2024 đang trở về cho tất cả người con Phật khắp năm châu.

Trong kinh, Đức Phật dạy có bốn ân lớn nhất đời người là:

  1. Ân Cha Mẹ
  2. Ân Sư Trưởng
  3. Ân Đất Nước Xã Hội
  4. Ân Chúng Sanh

Vâng lời Phật dạy, các chùa thường tụng kinh Vu Lan Bồn, Phụ Mẫu Báo Trọng Ân vào trọn tháng 7 âm lịch và vào ngày rằm tháng 7 làm lễ Cầu siêu cho cha mẹ, cửu huyền thất tổ quá vãng (ân thứ nhất) cũng như cúng thí cho 12 loại cô hồn (ân thứ tư). Đối với đất nước Việt Nam, Hoa Kỳ, Ấn Độ hay toàn cầu (ân thứ ba) chúng ta cũng bày tỏ lòng biết ân nơi mình sinh ra, nơi che chở, nuôi dưỡng và cho chúng ta lớn lên bình an. Vu Lan cũng là dịp để chúng ta lắng lòng và thành tâm cầu nguyện biết ân và tri ân các bậc thầy sư trưởng (ân thứ tư). Đó là lý do, các chùa trong mùa Vu Lan này hay cúng hiệp kỵ (nhiều giác linh) hay húy kỵ (một giác linh) bậc thầy của mình.

Chùa Hương sen (California, Hoa Kỳ) năm nay kết hợp tổ chức Vu Lan và lễ Húy Kỵ Đại Lão Sư Trưởng Hải Triều Âm lần thứ 11 vào ngày 11 tháng 8 năm 2024.

 

 

Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng

Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền.

Trong Quy Sơn đã dạy: “Thân ta có được nhờ ơn cha mẹ và chúng ta có được ngày hôm nay là nhờ ân thầy.” Không ai trong chúng ta có thể tự mình không học mà hiểu biết, nên ân thầy rất lớn.

Từ lúc bước vào chùa cạo tóc để chỏm, đến lúc đắp y cà sa, học kinh- luật-luận, giới phẩm, oai nghi tế hạnh, đều nhờ ở nơi thầy. Thầy là người thay Đức Từ Phụ Thế Tôn, mớm sữa chánh pháp cho chúng ta, công ơn ấy cao sâu như trời biển.

Thầy trải lòng từ ấp ủ con

Tình sâu như biển, nghĩa dường non

Lời khuyên thấm não mưa từng giọt

Ngọc kết châu tràng đậm nét son.

 

Sư Bà Hải Triều Âm là bậc đại ni, long-tượng trong hàng Ni giới Việt nam.

Sư Bà quy y với đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng với pháp danh là Hải Triều Âm. Năm 1949, Sư Bà giác ngộ lý vô thường và biết rằng từ thiện chưa đủ để đưa đến giải thoát, nên xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Đức Nhuận và thọ giới với Hòa thượng Ni Tịnh Uyển, Chùa Thanh Xuân, Hà Nội.                 

 

su ba hai trieu am (5)su ba hai trieu am (6)

 

 

 Năm 1952, Sư bà vâng lời Thầy bổn sư năm giới Thích Mật Ứng để di cư vào Nam. Nhập chúng chùa Dược Sư, Gia Định, Sài Gòn. Vừa lo tu học vừa chăm sóc mẹ già bị đột quỵ và nhận làm giáo thọ, chuyên giảng dạy cho Phật tử.       
           

Với lòng từ bi vô hạn, Sư bà nguyện độ chúng sanh và bắt đầu nhận chúng đủ các căn cơ, già trẻ lớn bé cho đến trẻ mồ côi và người tàn tật. Sư bà đều đưa tay tế độ, mục đích giúp họ kết duyên với Phật Pháp chẳng những cho đời này mà cho cả đời sau nữa. Tình thương của Sư bà thật vô cùng rộng lớn!

Sư bà là một trong những vị Sư Trưởng có số đệ tử ni xuất gia nhiều nhất tại Việt Nam. Đệ tử xuất gia của Sư bà có hơn 1,000 vị ở Việt Nam và hải ngoại. Tại Hoa Kỳ có Ni sư Hiếu Đức, Ni sư Tâm Nhật, Ni sư Giới Hương…; ở Canada có Ni sư Bảo Quang, Ni sư Đức Nghiêm…; ở Pháp có Ni sư Hồng Phúc..., ở Việt Nam với hơn 900 vị. Còn Phật tử quy y có cả hàng ngàn vị, không thể đếm xuể.

Từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, Sư bà ân cần truyền dạy kinh, luật, luận liên tiếp với giọng nói từ tốn, hiền hòa và lời giảng thực tế, dễ hiểu để Ni chúng ứng dụng tinh cần tu tập. Mùa xuân học Tứ Niệm Xứ, mùa hè học luật, mùa thu học Lăng Nghiêm và mùa đông học Tịnh độ. Sư bà khiêm cung, đơn giản, từ hoà nhưng nghiêm khắc sửa trị những thói hư tật xấu của tập khí đời thường, đưa Ni chúng vào khuôn khổ giới luật và nội quy của chốn thiền môn.       

 su ba hai trieu am (3)

Photo từ phải: Sc Viên Giác, Sc Viên Chân, Ns Như Quang, Ns Diệu Nghiêm, Ns Tâm Nhật, Ns Giới Hương, Ns Như Quang (Trụ trì Chùa Phước Quang), Sc Viên Tiến, Sc Viên An và Sc Huệ Tịnh

Tấm gương "quên mình vì người" của Sư bà là những ấn tượng khó phai trong tàng thức của chúng con. Hình ảnh Sư bà thuyết Pháp, từng lời chậm rãi, chánh niệm, thân thiện, chỉ dạy đệ tử từ điều lớn đến điều nhỏ li ti trong cuộc sống. Lúc trực nhật nấu cơm trong bếp, Sư bà luôn nhắc nhở ni chúng tiết kiệm từng hạt gạo, từng hạt muối của đàn na tín thí. Đến mùa bơ, đu đủ ở Đại Ninh, Lâm Đồng, Phật tử cúng dường rất nhiều trái cây cho Chùa. Sư bà khuyên không nấu cơm, chế biến trái cây ăn cho hết, kẻo hư, phí của, phụ lòng thí chủ đã chăm sóc đem đến tận chùa để cúng dường cho ni chúng thọ dụng.

 

Có một lần chùa được cúng dường vải lam, Sư bà chia hết cho đệ tử nhưng còn thiếu một phần cho sư cô. Cuối cùng, sư bà liền lấy phần vải mới của mình, cắt ra may áo cho sư cô ấy. Tất cả các đệ tử đều trân quý và tôn kính Sư bà như một người Mẹ hiền! Bản thân rất cần kiệm, dù hơn 70 tuổi, sư bà vẫn tự giặt áo và giăng mùng, ngài không muốn làm phiền ai. Vào mùa đông giá buốt ở cao nguyên, mọi người đều co ro trùm đầu, quàng khăn, mặc 5-6 lớp áo, Sư bà đưa áo ấm, mền bông của mình cho các đệ tử dùng, còn sư bà tìm những tấm vải vừa nặng vừa thô ráp làm chăn đắp cho mình. 

 

su ba hai trieu am (4)
Photo: Hội trường Chùa Hương Sen

 

Khi về chùa Liên Hoa, quận Bình Thạnh, Sài Gòn, nhiều đệ tử ni theo Sư bà tu học rất đông (trong đó có Ni sư TN Giới Hương và Ns Thanh Đức - em họ của Ns Giới Hương), Sư bà ngăn đôi phòng tắm bằng tấm màn, để có chỗ nghỉ cho mình, còn phòng mình thì để cho học chúng ở. Chăm lo cho các đệ tử hiện tại đã khó khăn trăm bề; đã vậy còn lo tới mai sau, khi Sư bà về Phật thì đệ tử của mình sẽ ăn ở đâu, tu học ở đâu? Thế là ngài bắt đầu xây dựng chùa cho đàn hậu lai. Cuối cùng đã lập được chín cảnh chùa: Ni Liên, Linh Quang, Liên Hoa, Viên Thông, Hương Sen, Dược Sư 1, Lăng Nghiêm, Bát Nhã và Dược Sư 2.   

Nhận thấy đàn hậu lai bận rộn, ít có thời gian nghiên cứu chữ Hán, Sư bà đã biên dịch, biên soạn từng bộ kinh Hán văn sang tiếng Việt để cho hậu học sau này có kinh sách tiếng Việt dễ tụng, dễ học và dễ hiểu. Ngài có hơn 100 ấn bản và thường không ghi tên mình là tác giả mà lấy tên của các đệ tử đặt vào sách. Dù thân già lão, bịnh suy yếu, nhưng ngài ít tỏ ra mõi mệt, phiền muộn, gặp ai cũng nở nụ cười hiền hòa, dễ mến (dù không có chiếc răng nào vẫn hảo tướng sáng rỡ).         

 

 

Qua bao thăng trầm trong cuộc sống, trí tuệ của Sư bà vẫn như vầng trăng sáng chiếu soi, phá tan màn đêm tăm tối của cuộc đời. Dù nói cách nào đi nữa cũng không đủ lời để tán dương đức hạnh của ngài, bậc thạc-ni đạo hạnh giữa cõi đời của thế kỷ 20-21. Và chính bản thân chúng con vô cùng hãnh diện, tự hào và diễm phúc được làm đệ tử và sư cháu của Sư bà và luôn tôn kính ngài như một vị Thánh.

 

Trước ngày vãng sanh, Sư bà đã nhìn thấy Đức Phật A Di Đà, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quan Âm, Thế Chí cùng các thánh chúng đến đón rước về cõi Cực Lạc Tây Phương. Noi gương tông chỉ tu tập giới-định-tuệ, bái sám, tụng kinh, niệm Phật của Sư bà, Ni chúng Chùa Hương Sen (California, Hoa Kỳ) phát nguyện tu tập theo pháp môn niệm Phật, giữ tâm thanh tịnh, một lòng tinh tấn, cầu được vãng sanh Cực Lạc quốc.

Nam Mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội,

Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang Như Lai.

Nam mô A Di Đà Phật.

 

 

Chùa Hương Sen, ngày 11/8/2024

Kính dâng đôi lời tưởng niệm,

Đại diện Chúng ni Hương Sen,

TKN Thích Nữ Viên An

(Dựa theo Tiểu sử của Sư Bà Hải Triều Âm

và lời kể của sư phụ TN Giới Hương)

 

 

 

su ba hai trieu am (7)

 

Photo: Cúi đầu tưởng niệm Ân Sư thượng Hải hạ Triều Âm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 8406)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5455)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5935)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6909)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7635)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5172)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6610)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6568)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14514)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 13267)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]