Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo sư Cao Huy Thuần vừa qua đời tại Paris, Pháp Quốc

10/07/202404:03(Xem: 1987)
Giáo sư Cao Huy Thuần vừa qua đời tại Paris, Pháp Quốc



Cao Huy Thuan
CAO HUY THUẦN
BIẾT BAO GIỜ CÓ LẠI
 

Tin anh Cao Huy Thuần vừa ra đi, đột ngột và xót xa quá!

 

Nhớ mới tuần trước, chia sẻ tin thầy Thích Chân Trí, trụ trì chùa Phước Điền vừa tạ thế ở Huế, anh Cao Huy Thuần viết email chia sẻ: 

 

"CHT thăm và rất nhớ TKĐ. Tôi cũng xúc động. Hồi Đệ ngũ hay Đệ lục gì đó, tôi sinh hoạt GĐPT với thầy Thiên Ân ở chùa Quan Âm gần Phước Điền. Còn thầy Đức Tâm, ôi thầy Đức Tâm thương quý, năm 1980 tôi về gặp thầy sau 16 năm biệt xứ, hai thầy trò ôm nhau, tưởng chừng 16 năm chỉ là hôm qua. Những ông Thầy… những ông Thầy… mất đi, mất dần, cả một thế hệ mất dần, mất đi, chúng ta cũng thế, một thế hệ trong sáng, nhiệm mầu, biết bao giờ có lại. CHT."

 
cao huy thuan-3

 

 

Thời Phật giáo xuống đường vào những năm 1960, anh Cao Huy Thuần là một nhà làm báo mà tôi chỉ là một đoàn sinh GĐPT đi phát báo. Thuở ấy, tờ LẬP TRƯỜNG như một tiếng kèn xông xáo trong mặt trận văn chương và xã hội của khuynh hướng Phật giáo dấn thân, tôi mê nhất là mục Chén Thuốc Đắng của Ba Cao do chính anh Thuần phụ trách. Đó là mục chính luận sắc bén nhất của tờ báo dưới hình thức phiếm luận hoạt kê. Rồi thời gian qua đi, anh Thuần sang Pháp và ở luôn bên đó. Đạo pháp và thế sự thăng trầm... gẫm nghe thơ Vũ Hoàng Chương như một tâm kinh tiễn biệt khung trời Huế xưa:

 

Rồi đây… rồi mai sau… còn chi ?

Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát

Với thời gian, lê vết máu qua đi

Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ tát

Dội hào quang xuống chốn A tì

 

Ngày lần đầu tiên từ Mỹ qua châu Âu, chị Thái Kim Lan ở Đức đã nhiệt tình giới thiệu cho tôi thăm chùa Khuông Việt ở Dorsey, ngoại ô Paris. Chùa Khuông Việt ngày đó chỉ mới là một căn nhà tàm tạm nhưng rất nhiều hoa. Chùa có hai thầy và anh Cao Huy Thuần. Được ăn bữa cơm chay đầy đạo vị do chính quý Thầy và anh Thuần... biên soạn. Bữa ăn ngon thường nhớ hết một đời!

 

Đạo Phật Việt Nam xa xứ như dòng sông Hương ngoài biên giới: Trong mướt và huyền diệu vì không có bờ mé ngăn ngại ân tình kẻ ở người đi. Anh Thuần cho tôi được chọn một nơi thích nhất đến viếng vào buổi chiều hôm đó, tôi muốn đến thăm cầu Mirabeau nơi có thơ Apollinaire làm ngọt lịm những hồn thơ trên thế giới:

 

"Sous le pont Mirabeau coule la Seine

Et nos amours

Faut-il qu’il m’en souvienne

La joie venait toujours après la peine"

 

Dưới cầu Mirabeau sông Seine trôi

Tình đôi ta. Nổi chìm sao nhớ quá

Buồn qua rồi có lại được niềm vui

 

Còn nhớ cả buổi chiều đến gần tối, anh em vẫn không tìm ra chiếc cầu Mirabeau trong 37 chiếc cầu bắt qua dòng sông Seine xinh đẹp. Điều đáng ngạc nhiên là hỏi người đi đường chẳng có ai biết chiếc cầu đã trăm tuổi ấy nằm ở khúc sông nào. Với một chút mỏi mệt và nản lòng anh em ghé quán cà phê bên bờ sông Seine. Rất tình cờ, người chủ quán cà phê chỉ vào chiếc cầu: Mirabeau 1897. Thì ra chiếc cầu trước mắt mà như đã chìm vào quên lãng. Tôi chỉ vào chiếc cầu tâm ảnh trong cảm xúc riêng của mình: Trường Tiền 1897. Hai chiếc cầu cùng thời bắc ngang qua hai dòng sông lịch sử và cùng trợ duyên cho cả hai dòng sông chỉ có một âm: Hương – Seine. Tôi chia sẻ ý nghĩ ngồ ngộ nầy với anh Cao Huy Thuần. Anh cười lặng lẽ và nói với ai mà như nói một mình:

 

-         Con trai Huế toàn cả yêu nước, yêu nhà và yêu người đầy lãng mạn. 

 

Bên mé cầu Mirabeau trong bóng tối, tôi cố đụng vào bàn tay giơ lên của bức tượng xanh tạc người thiếu phụ mà bỗng nhớ về sông Hương, một dòng sông cứ mãi luân lưu không bao giờ là dĩ vãng trong lòng người ra đi như chúng tôi.

 

Cư sĩ Cao Huy Thuần sinh năm 1937 tại Huế, tốt nghiệp đại học Luật khoa Sài gòn năm 1960, dạy đại học Huế (1962-1964), năm 1964 sang Pháp và ở lại cho đến cuối đời. Anh là GS.TS về ngành chính trị học tại đại học Picardie, Pháp cho đến ngày hưu trí. Dẫu mang bao nhiêu học hàm, học vị trong nước và ngoài nước, những huynh trưởng và đoàn sinh trong hệ thống GĐPT Việt Nam như tôi, một thời và mãi mãi, vẫn gọi nhân vật Cao Huy Thuần bằng tiếng “Anh” thân thương vì anh đã đến, đã sống và đã đi với chân dung của một người Phật tử thuần thành sống tình nghĩa và chung thủy với Đạo Pháp, Dân Tộc, người thân, bằng hữu và chính mình. Anh ra đi lúc 23 giờ 26 phút ngày 7-7-2024 (nhằm mùng 2 tháng 6 năm Giáp Thìn) tại Paris, Pháp.

 

Cư sĩ Cao Huy Thuần là tác giả của nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp về khoa học chính trị và quan hệ quốc tế. Cùng duyên lành với tiếng Việt thân yêu, Anh là tác giả của nhiều tác phẩm giá trị gồm hơn 15 đầu sách đã được in ấn và xuất bản cùng nhiều bài biên khảo, tham luận, nhận định về các đề tài tôn giáo, văn chương và chính trị.

 

Anh được hàng Phật tử Việt Nam xuất gia cũng như tại gia quý trọng với vai trò là là một Phật tử thuần thành đóng vai trò xông xáo với pháp hạnh không thối chuyển dẫu cho những cơn lốc lịch sử và giáo sử muốn thổi phăng anh ra khỏ đường Trung Đạo. Trong tất cả những giai đoạn thăng trầm nhất của Đạo Pháp giữa dòng lịch sử và trong lòng dân tộc dẫu rằng anh sống ở nước ngoài mà không là người ngoại cuộc.

 

Những dòng tâm cảm với cuộc đời nầy Anh đã nói qua tác phẩm. Lòng yêu Đạo quý đời anh đã sống bằng hành động và những ân tình bằng hữu Anh đã thân trao bằng tác phẩm và đến giờ anh an tịnh thong dong ra đi.

 

Người Phật tử thuần thành nhìn dáng vẻ đổi thay hình tướng nhẹ nhàng như mây trắng.

 

Từ bên nầy phương trời châu Mỹ, xin hướng vọng qua châu Âu để tiễn biệt Anh về châu Á, buông tay vô cầu không lại hoàn không.

 

                                                                                Sacramento 8-7-2024

                                                                                   Trần Kiêm Đoàn



cao huy thuan-2

Tâm tình của Giáo sư Cao Huy Thuần
trong sách 'Khi tựa gối khi cúi đầu'

Tập tản mạn là những chia sẻ của một trí thức chọn cách nhìn người, nhìn đời với phong thái sống nhẹ nhõm mà vẫn đầy ắp suy tư.

Cuốn tản mạn của Giáo sư Cao Huy Thuần gồm bốn chương. Tác giả lấy các câu thơ từ Truyện Kiều để đặt tên cho mỗi chương: Khi tựa gối - Khi cúi đầu - Khi vò chín khúc - Khi chau đôi mày. Bốn trạng thái biểu cảm này xâu chuỗi liên hoàn như ngụ ý về một hành trình nhận thức. Ở mỗi chương, từng trang viết của ông bao quát mọi điều trong cuộc sống con người, từ chuyện quốc gia đại sự, ý thức chính trị, màu sắc tôn giáo, lịch sử, văn hóa đến những chuyện đời thường, vặt vãnh nhất.


cao huy thuan-2

Từ sách, độc giả có thể góp nhặt được nhiều kiến thức Đông - Tây ở nhiều lĩnh vực. Dẫu vậy, bằng sự khiêm tốn của mình, tác giả vẫn xem mọi sự dường như chỉ là mơ hồ, không biết. Ông viết: "Bắt đầu soạn một bài giảng, mình là người không biết gì cả. Bắt đầu đi vào một nghiên cứu, mình là người không biết gì cả. Đọc sách từ sáng đến chiều, miệt mài gần nửa thế kỷ, có biết gì đâu trong biển học mênh mông. Mình chưa bao giờ chấp nhận tranh cãi với ai, dù trước học trò hay công chúng… Suốt đời, đứng trước mọi câu hỏi, cái đầu mình trống không như không biết gì cả".

Về cuốn sách, nhà thơ Nguyễn Duy nhận xét: "Đọc anh, tôi thực lòng kính phục một học giả uyên thâm biết tìm kiếm đến ngọn nguồn sự biết. Tôi lại càng cảm phục một tác giả tinh tế biết nép mình sau trang viết, truyền bá trí tuệ và kết nối lương tri bằng cảm xúc, với tất cả năng lượng tâm hồn cùng năng lực văn chương có thể".

Sau hơn sáu năm Khi tựa gối khi cúi đầu của tác giả Cao Huy Thuần được xuất bản lần đầu tiên, Khai Tâm Book thực hiện bản in mới tác phẩm này, cung cấp thêm nhiều chú thích từ ban biên tập.

Tác giả Cao Huy Thuần sinh ra tại Huế. Trước khi mang quốc tịch Pháp, ông học Đại học Luật Sài Gòn (1955-1960), sau đó có hai năm dạy học tại Huế. Năm 1964 ông sang Pháp du học. Hiện ông là giáo sư ngành Chính trị học tại Đại học Picardie (Pháp). Ông là tác giả của nhiều cuốn sách như Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta hay Tôn giáo và xã hội hiện đại, Nắng và Hoa, Thế giới quanh ta, Thấy Phật, Nhật ký sen trắng, Sợi tơ nhện...

Hữu Nam

vnexpress.net


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8838)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20747)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6376)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8746)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5822)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19463)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9699)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6162)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6981)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6423)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]