Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

04/02/202416:00(Xem: 1200)
Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

 

 LỄ TƯỞNG NIỆM

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH THẮNG HOAN
do Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL

tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Banstown, NSW
10:30am - Chủ Nhật 04/02/2024

---o0o---

 

 

- Phật tử tề tựu

- Cung An Chức Sự  & cung thỉnh Chư Tôn Đức (ĐĐ Đăng Nghĩa)

- Cử ba hồi chuông trống bát nhã

- Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm

- Tuyên bố lý do và giới thiệu  thành phần tham dự (MC TT Nguyên Tạng)

- Lời khai mạc buổi lễ (TT Phó Ban Tổ Chức Thích Đạo Hiển)

- Cung tuyên tiểu sử (HT Thích Nguyên Trực)

- Điện Thư Phân Ưu của GH Úc Châu (HT Phó Hội Chủ Thích Như Định)

- Thơ tưởng niệm HT Thắng Hoan (Thơ của HT Nhật Tân, TT Phổ Hương diễn đọc)

- Nhạc phẩm Chuông Tỉnh Thức” Thơ của HT Thắng Hoan, do Ca Sĩ Nhất Luân phổ nhạc và trình bày

- Lời Đạo Tình Pháp Lữ của Chư Tôn Đức Úc Châu (HT Thích Quảng Ba)

- Lễ Cúng Tiến Giác Linh (TV Nghi Lễ Giáo Hội, HT Hội Chủ Thích Tâm Minh chủ sám)

- Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức  (HT Thích Bổn Điền)

- Hồi hướng & chụp hình lưu niệm (Nhiếp ảnh viên: Quảng Hội)



***

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG HẢI NGOẠI TẠI ÚC ĐẠI LỢI VÀ TÂN TÂY LAN

(GHPGVNTNHN TẠI UĐL& TTL)


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch Hòa Thượng Đệ Nhất Chứng Minh Thích Quảng Ba – Tu Viện Trưởng Tu Viện Vạn Hạnh – Canberra.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Bổn Điền- Chánh thư ký- HĐCM-CV: GHPGVNTNHN TẠI UĐL & TTL

Kính thưa Hòa Thượng Thích Tâm Minh, Hội Chủ điều hành – GHPGVNTHHN TẠI UĐL & TTL

Ngưỡng bái bạch trên Chư Tôn Hòa Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni.


Kính thưa toàn thể quý Đồng hương và Phật tử - hiện diện trong khung già lam chùa Huyền Quang sáng hôm nay; ngày 4 tháng 2 năm 2024 (nhằm  ngày 25 tháng chạp năm Quý Mão).

Kính bạch quý Ngài!

Kính thưa liệt quý vị

 Giáo hội Hoa kỳ ngàn thu vắng bóng,

Liên châu Phật giáo, nhuộm khí tang buồn,

Giáo hội úc châu, còn vương đương nhiệm.

Tào khê rẽ lối, khúc ca vô thường

Giáo hội ngửa nghiêng, ưu đàm nhạt sắc

Răng rơi môi lạnh, huyễn thân chia lìa

Kiếp người dâng hiến trọn tình linh sơn.

Như một mặt trời vừa khuất bóng để lại một màn đêm còn nóng bức, giữa bầu trời oai bức của khí tiết mùa hè đông bộ Úc châu, đã thể nghiệm được sự vô thường ngắn ngủi thời gian trần thế. Như ánh vầng dương vừa ló dạng đã làm liệm tắt màn tối vô minh, không sắc của cuộc đời. Giáo hội úc châu khi nghe tin Hòa Thượng thượng Thắng hạ Hoan (1928 – 2024), Thuận thế vô thường, ngay vào lúc Tăng Ni tại NSW và ACT Bố tát tại chùa Thiên Ấn. Chư Tôn Đức Tăng Ni rất bàng hoàn và xúc động, khi hay tin Hòa Thượng viên tịch.  Hòa Thượng Thích Quảng Ba đã tức tốc liên lạc với Hòa Thượng Thích Minh Dung tại Hoa Kỳ, để theo dõi tình hình cho chương trình tang lễ. Chánh thư ký văn phòng HĐCM- CV Hòa Thượng Thích Bổn Điền cùng Hội Đồng điều hành Giáo Hội Úc Châu, Hội Chủ Hòa Thượng Thích Tâm Minh hợp khẩn, quyết định ra Thông báo triệu tập lễ tri niệm này.

Truyền thống kỷ niệm của Giáo hội Úc châu khi có các bậc Cao tăng, thạc đức trưởng thượng quy tây, đều làm lễ tưởng niệm, cũng để thầm răn dạy cho toàn thể Tăng ni trẻ trong Giáo hội chúng ta, noi theo công hạnh của người tiền nhân đã tu trì và giữ lấy giềng mối của Đạo pháp. Để duy trì tinh thần sinh hoạt chung của cộng đồng Tăng lữ, quy tắc thiền môn hay đạo phong khả kính của các bậc tiền nhân đã nằm xuống và để lại. Đó là tinh thần nhập thế cao đẹp nhất của vai trò người con sứ giả Đức Như lai.

Đây là giá trị đích thực để chúng ta tổ chức lễ kỷ niệm về ngài, góp một phần tha lực tín ngưỡng nhất tâm cầu nguyện theo truyền thống Phật giáo đại thừa. Nhằm thể hiện sự tôn kính giáo dục, mang ý nghĩa tình linh sơn cốt nhục của văn hóa cữa thiền, cũng là bài học cho hậu thế và hàng Phật tử tại gia, tạc dạ đạo lý uốn nước nhớ nguồn. Để chúng ta ôn lại bài học vô thường, nhằm ý thức rằng chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì cho đạo pháp, cho Giáo hội, mà các vị Tổ sư đã để lại cho chúng ta? Hãy nói cho thể hệ trẻ trong tương lai rằng: Một Đạo Phật hiện hữu như ngày hôm nay, là truyền thống văn hóa được xây đắp bằng con tim khối óc, lẫn cả xương máu và tính mạng của bậc Tiền nhân, mở mang Phật pháp, xây dựng tiền đồ đến các nước Tây phương này.

Kính bạch quý ngài!

Kính thưa quý liệt vị!

Cuộc đời của Đức Cố Hòa Thượng Trưởng Lão Thích Thắng Hoan là một bản trường ca sinh động, để Giáo hội và tăng ni phải học tập và noi gương. Cuộc sống của Ngài là một bậc xuất trần thượng sĩ, đồng ấu xuất gia, tại việt nam rồi ly hương theo làn sóng tỵ nạn của người con Việt Nam. Nhân duyên bổ xứ, Ngài định cư tại đất nước Hoa kỳ. Hòa Thượng đã trải qua gần một thế kỷ trong cuộc đời, chứng kiến biết bao nhiêu sự thay ngôi, đổi chúa cùng sự biến thiên của xã hội. Cuộc sống là động nhưng lòng ngài không động, đời sống của ngài được sâu kết thành một chuỗi dài lịch sử từ Á sang Tây. Sống trong một hiệp chủng quốc văn minh vật chất hàng đầu thế giới, nhưng không vì đó mà bị đắm chìm trong vật chất; tu không chùa, sống vì Giáo hội không phân biệt Nam – Bắc hai thừa. Dành trọn vẹn cuộc đời hi hiến cho Giáo hội, nghiên cứu tu tập cho trước tác phiên dịch, sự hưng vong của đạo pháp cùng dân tộc việt Nam quốc nội và tại Hoa Kỳ.

Đạo nghiệp của ngài là một nhà Duy thức luôn tầm cầu quán chiếu sự biến thiên của vạn pháp, như là sự hoạt động của Tiền Ngũ Thức trong thế giới đầy biến đổi của sum la vạn tượng này. Đó chính là hành trạng của ngài để lại cho hậu thế.

Nhớ lại: khi còn sinh hoạt những Phật sự Giáo hội gặp nhiều thăng trầm, Hòa Thượng Thắng Hoan cùng chư huynh đệ luôn luôn đứng bên nhau, để chèo con thuyền của Giáo hội và tìm hướng bước ra khỏi phong ba bão táp. Đặc biệt những thập niên 2008 đến 2012, sau giáo chỉ số 9 ra đời. Nội công ngoại kích, làm cho tinh hình Phật giáo thế giới lúc này có nhiều biến động, nhưng với sự nhiệt tâm hi hiến cho đạo pháp và tài đức vẹn tròn của các ngài trong Giáo hội các Châu:   

Như là:  Cố Hòa Thượng Hội Chủ thượng Như hạ Huệ - Giáo Hội Úc Châu

             Cố Hòa Thượng Chủ Tịch thượng Minh hạ Tâm – Giáo Hội Âu Châu

và nay là: Cố Hòa thượng Chủ Tịch thượng Thắng hạ Hoan – Giáo Hội Hoa Kỳ.

đã nhẹ nhàng lái con thuyền cập bến trong sự bình an, hài hòa và tương kính. Mặc dù có bất đồng chính kiến trong Tăng đoàn hoặc của Giáo hội, nhưng sự bất đồng đó không cho phép dẫn đến sự chia rẽ. Đó là trách nhiệm và vai trò tôn trọng với nhau, thể hiện tinh thần nghiêm trì giới luật của người con đệ tử Phật. Vì tương lai Phật pháp, vì sự hòa hợp như nước với sữa, vì hậu bối truyền đăng tục diệm, mà ngài phải vượt qua những sóng gió thị phi ở đời để chèo con thuyền Giáo hội.

Ngài ra đi là một mất mác rất lớn cho Phật Giáo nói chung, và Giáo hội Hoa kỳ nói riêng. Nhưng đối  với Giáo hội Úc Châu chúng ta cũng đã thọ ân của ngài rất nhiều; Hòa Thượng là Thành viên Hội Đồng Chứng Minh PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL -TTL  từ năm (1999 - 2024) là trọn 25 năm. Một khoảng thời gian rất lớn cho sự chứng minh gia bị, hoằng dương Phật pháp cho Giáo hội chúng ta.

Do đó, chúng ta là người hậu bối phải cùng nhau xây dựng, giữ lấy truyền thống của Thầy tổ và tiền nhân để lại. Đặc biệt tri ân Hòa Thượng Chánh thư ký- HĐCM – CV Thích Bổn Điền cùng sự dứt khoát tinh tế của Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tâm Minh mới đem lại buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh và hòa hợp. Để nhất tâm hướng về:

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Trí Bản Đột Không Pháp Phái, Đệ Nhị Thập Tứ Thế, Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ Giáo Hội, Giáo Phẩm Hội Đồng Chánh Văn Phòng, Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi Và Tân Tây Lan. Húy thượng Thắng hạ Hoan, Hiệu Long Hoan. Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Nghê Đài Thùy Từ Chứng Giám.

Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát ma Ha Tát.

Sydney ngày 4/2/2024

Khể Thủ

Tỳ Kheo Thích Đạo Hiển



 

 

tuong niem-ht thang hoan (1)tuong niem-ht thang hoan (2)tuong niem-ht thang hoan (3)tuong niem-ht thang hoan (4)tuong niem-ht thang hoan (5)tuong niem-ht thang hoan (6)tuong niem-ht thang hoan (7)tuong niem-ht thang hoan (8)tuong niem-ht thang hoan (9)tuong niem-ht thang hoan (10)tuong niem-ht thang hoan (11)tuong niem-ht thang hoan (12)tuong niem-ht thang hoan (13)tuong niem-ht thang hoan (14)tuong niem-ht thang hoan (16)tuong niem-ht thang hoan (17)tuong niem-ht thang hoan (18)tuong niem-ht thang hoan (19)tuong niem-ht thang hoan (21)tuong niem-ht thang hoan (22)tuong niem-ht thang hoan (23)tuong niem-ht thang hoan (24)tuong niem-ht thang hoan (25)tuong niem-ht thang hoan (26)tuong niem-ht thang hoan (27)tuong niem-ht thang hoan (28)tuong niem-ht thang hoan (29)tuong niem-ht thang hoan (30)tuong niem-ht thang hoan (31)tuong niem-ht thang hoan (32)tuong niem-ht thang hoan (33)tuong niem-ht thang hoan (34)tuong niem-ht thang hoan (35)tuong niem-ht thang hoan (36)tuong niem-ht thang hoan (37)tuong niem-ht thang hoan (38)tuong niem-ht thang hoan (39)tuong niem-ht thang hoan (40)tuong niem-ht thang hoan (41)tuong niem-ht thang hoan (42)tuong niem-ht thang hoan (43)tuong niem-ht thang hoan (44)tuong niem-ht thang hoan (45)tuong niem-ht thang hoan (46)tuong niem-ht thang hoan (47)tuong niem-ht thang hoan (48)tuong niem-ht thang hoan (49)tuong niem-ht thang hoan (50)tuong niem-ht thang hoan (51)tuong niem-ht thang hoan (52)tuong niem-ht thang hoan (53)tuong niem-ht thang hoan (54)tuong niem-ht thang hoan (55)tuong niem-ht thang hoan (56)tuong niem-ht thang hoan (57)tuong niem-ht thang hoan (58)tuong niem-ht thang hoan (59)tuong niem-ht thang hoan (60)tuong niem-ht thang hoan (61)tuong niem-ht thang hoan (62)tuong niem-ht thang hoan (63)tuong niem-ht thang hoan (64)tuong niem-ht thang hoan (65)tuong niem-ht thang hoan (66)tuong niem-ht thang hoan (67)tuong niem-ht thang hoan (68)tuong niem-ht thang hoan (69)tuong niem-ht thang hoan (70)tuong niem-ht thang hoan (71)tuong niem-ht thang hoan (72)tuong niem-ht thang hoan (73)tuong niem-ht thang hoan (74)tuong niem-ht thang hoan (75)tuong niem-ht thang hoan (76)tuong niem-ht thang hoan (77)tuong niem-ht thang hoan (78)tuong niem-ht thang hoan (79)tuong niem-ht thang hoan (80)tuong niem-ht thang hoan (81)tuong niem-ht thang hoan (82)tuong niem-ht thang hoan (83)tuong niem-ht thang hoan (84)tuong niem-ht thang hoan (85)tuong niem-ht thang hoan (86)tuong niem-ht thang hoan (87)tuong niem-ht thang hoan (88)tuong niem-ht thang hoan (89)tuong niem-ht thang hoan (90)tuong niem-ht thang hoan (91)tuong niem-ht thang hoan (92)tuong niem-ht thang hoan (93)tuong niem-ht thang hoan (94)tuong niem-ht thang hoan (95)tuong niem-ht thang hoan (96)tuong niem-ht thang hoan (97)tuong niem-ht thang hoan (98)tuong niem-ht thang hoan (99)tuong niem-ht thang hoan (100)tuong niem-ht thang hoan (101)tuong niem-ht thang hoan (102)tuong niem-ht thang hoan (103)tuong niem-ht thang hoan (104)tuong niem-ht thang hoan (105)tuong niem-ht thang hoan (106)tuong niem-ht thang hoan (107)tuong niem-ht thang hoan (108)tuong niem-ht thang hoan (109)tuong niem-ht thang hoan (110)tuong niem-ht thang hoan (111)tuong niem-ht thang hoan (112)tuong niem-ht thang hoan (113)tuong niem-ht thang hoan (114)tuong niem-ht thang hoan (115)tuong niem-ht thang hoan (116)tuong niem-ht thang hoan (117)tuong niem-ht thang hoan (118)tuong niem-ht thang hoan (119)tuong niem-ht thang hoan (120)tuong niem-ht thang hoan (121)tuong niem-ht thang hoan (122)tuong niem-ht thang hoan (123)tuong niem-ht thang hoan (124)tuong niem-ht thang hoan (125)tuong niem-ht thang hoan (126)tuong niem-ht thang hoan (127)tuong niem-ht thang hoan (128)tuong niem-ht thang hoan (129)tuong niem-ht thang hoan (130)tuong niem-ht thang hoan (131)tuong niem-ht thang hoan (132)tuong niem-ht thang hoan (133)tuong niem-ht thang hoan (134)tuong niem-ht thang hoan (135)tuong niem-ht thang hoan (136)tuong niem-ht thang hoan (137)tuong niem-ht thang hoan (138)tuong niem-ht thang hoan (139)tuong niem-ht thang hoan (140)tuong niem-ht thang hoan (141)tuong niem-ht thang hoan (142)tuong niem-ht thang hoan (143)tuong niem-ht thang hoan (144)tuong niem-ht thang hoan (145)tuong niem-ht thang hoan (146)tuong niem-ht thang hoan (147)tuong niem-ht thang hoan (148)tuong niem-ht thang hoan (149)tuong niem-ht thang hoan (150)tuong niem-ht thang hoan (151)tuong niem-ht thang hoan (152)tuong niem-ht thang hoan (153)tuong niem-ht thang hoan (154)tuong niem-ht thang hoan (155)tuong niem-ht thang hoan (156)tuong niem-ht thang hoan (157)tuong niem-ht thang hoan (158)tuong niem-ht thang hoan (159)tuong niem-ht thang hoan (160)tuong niem-ht thang hoan (161)tuong niem-ht thang hoan (162)tuong niem-ht thang hoan (163)tuong niem-ht thang hoan (164)tuong niem-ht thang hoan (165)tuong niem-ht thang hoan (166)tuong niem-ht thang hoan (167)tuong niem-ht thang hoan (168)tuong niem-ht thang hoan (169)tuong niem-ht thang hoan (170)tuong niem-ht thang hoan (171)tuong niem-ht thang hoan (172)tuong niem-ht thang hoan (173)tuong niem-ht thang hoan (174)tuong niem-ht thang hoan (175)tuong niem-ht thang hoan (176)tuong niem-ht thang hoan (177)tuong niem-ht thang hoan (178)tuong niem-ht thang hoan (179)tuong niem-ht thang hoan (180)tuong niem-ht thang hoan (181)tuong niem-ht thang hoan (182)tuong niem-ht thang hoan (183)tuong niem-ht thang hoan (184)tuong niem-ht thang hoan (186)tuong niem-ht thang hoan (187)tuong niem-ht thang hoan (188)tuong niem-ht thang hoan (189)tuong niem-ht thang hoan (190)tuong niem-ht thang hoan (191)tuong niem-ht thang hoan (192)tuong niem-ht thang hoan (193)tuong niem-ht thang hoan (194)tuong niem-ht thang hoan (195)tuong niem-ht thang hoan (196)tuong niem-ht thang hoan (197)tuong niem-ht thang hoan (198)tuong niem-ht thang hoan (199)tuong niem-ht thang hoan (200)tuong niem-ht thang hoan (201)tuong niem-ht thang hoan (202)tuong niem-ht thang hoan (203)tuong niem-ht thang hoan (204)tuong niem-ht thang hoan (205)tuong niem-ht thang hoan (206)tuong niem-ht thang hoan (207)tuong niem-ht thang hoan (208)tuong niem-ht thang hoan (209)tuong niem-ht thang hoan (210)tuong niem-ht thang hoan (211)tuong niem-ht thang hoan (212)tuong niem-ht thang hoan (213)tuong niem-ht thang hoan (214)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2010(Xem: 7444)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi. Sinh chính quán của tôi là làng Diêm Điền, thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, nằm phía Bắc con đường cái quan nối liền cổng Quảng Bình, trung tâm thành phố Đồng Hới, đến tận của Vũ Thắng, ven chân dãy núi Hoành Sơn.
03/10/2010(Xem: 6465)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta. Ý câu này, Ngài bảo đệ tử của Ngài, ai muốn tu, muốn hành theo hạnh Ngài thì phải rõ các hành vi của ngài. Nghĩa là: xét rõ nguyên nhân của Ngài, sẽ tin và làm theo, chớ đừng làm càn, tin bướng thì khác nào không phải lương y mà giả xưng là lương y, cách đó rất tai hại. Chúng ta nên biết: "Bồ Tát thị hiện phàm phu, chính phàm phú đó là hóa thân Bồ tát; còn phàm phu giả xưng Bồ tát thì Bồ tát ấy là Bồ tát của phàm phu". Nếu đem tâm phàm phu đó hành xử thì chỉ chuốc lấy phiền não khổ đau.
03/10/2010(Xem: 9523)
HT Minh Tâm (Khinh Anh) , 50 năm một đời người - Một đời đạo Pháp - phần 1 - Ngày Vía Quan Âm sắp đến.. 19 tháng 2 năm Giáp Ngọ . Chùa Phật Ân Tổ chức lễ Hoàn Nguyện , sau hai năm trùng kiến Ngôi Chánh Điện lần cuối và một số hạng mục khác. Vì nhân duyên đó , xin giới thiệu đến với quý thiện nam tín nữ , Phật tử gần xa , các Bậc Thiện Tri Thức . Một chuỗi hình ảnh của thầy Minh Tâm đã chuyển thể qua video , từ năm 1963 - 2014 . với nhan đề : THẦY MINH TÂM , 50 NĂM MỘT ĐỜI NGƯỜI - MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP . Trong quá trình sưu tầm , dàn dựng . Sai sót là điều khó tránh khỏi , kính mong quý vị hoan hỷ . NAM MÔ HOANG HỶ TẠNG BỒ TÁT .
29/09/2010(Xem: 9952)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 7837)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
23/09/2010(Xem: 6639)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ sanh năm 1922, tại ấp Mỹ Thủy, xã Thạnh Mỹ Lợi, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, miền Nam Việt Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoạch, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ngọc.
19/09/2010(Xem: 8195)
Ngay từ hồi nhỏ tâm hồn tôi đã hướng về đạo Phật. Tôi it nói, sống trong trầm lặng, ham đọc sách, nhất là những sách về đạo Phật viết cho trẻ em. Tôi chỉ có vài đứa bạn cũng giống tính tôi, gặp nhau thì vào buồng thủ thỉ thù thì nói chuyện với nhau. Cha tôi buôn bán lớn, giao thiệp nhiều, và cũng như phần đông các nhà kinh doanh hồi đó, đều quen biết các vị sư và đóng góp nhiều cho chùa chiền. Khi các thầy đến thăm cha tôi, lúc nào tôi cũng đứng gần nghe ngóng say sưa và dâng trà cho các thầy.
04/09/2010(Xem: 5901)
"Cây héo vào xuân hoa nỡ rộ Gió đưa nghìn dặm nức hương thần." Thiền Uyển Tập Anh ( Anh Tú Vườn Thiền) ghi về sư như sau: " Thiền Sư Viên Chiếu (999-1090) thuộc thế hệ thứ bảy dòng Vô Ngôn Thông.Thiền Sư họ Mai, tên Trực người huyện Long Đàm châu Phúc Điền, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý. Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưỡng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ.
21/08/2010(Xem: 10494)
Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch. Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.
18/07/2010(Xem: 7509)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]