Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

04/02/202416:00(Xem: 1201)
Photo: Lễ Tưởng Niệm và Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Bankstown, NSW, Úc Châu (Chủ Nhật 4/2/2024)

 

 LỄ TƯỞNG NIỆM

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH THẮNG HOAN
do Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL

tổ chức tại Chùa Huyền Quang, Banstown, NSW
10:30am - Chủ Nhật 04/02/2024

---o0o---

 

 

- Phật tử tề tựu

- Cung An Chức Sự  & cung thỉnh Chư Tôn Đức (ĐĐ Đăng Nghĩa)

- Cử ba hồi chuông trống bát nhã

- Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm

- Tuyên bố lý do và giới thiệu  thành phần tham dự (MC TT Nguyên Tạng)

- Lời khai mạc buổi lễ (TT Phó Ban Tổ Chức Thích Đạo Hiển)

- Cung tuyên tiểu sử (HT Thích Nguyên Trực)

- Điện Thư Phân Ưu của GH Úc Châu (HT Phó Hội Chủ Thích Như Định)

- Thơ tưởng niệm HT Thắng Hoan (Thơ của HT Nhật Tân, TT Phổ Hương diễn đọc)

- Nhạc phẩm Chuông Tỉnh Thức” Thơ của HT Thắng Hoan, do Ca Sĩ Nhất Luân phổ nhạc và trình bày

- Lời Đạo Tình Pháp Lữ của Chư Tôn Đức Úc Châu (HT Thích Quảng Ba)

- Lễ Cúng Tiến Giác Linh (TV Nghi Lễ Giáo Hội, HT Hội Chủ Thích Tâm Minh chủ sám)

- Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức  (HT Thích Bổn Điền)

- Hồi hướng & chụp hình lưu niệm (Nhiếp ảnh viên: Quảng Hội)



***

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG HẢI NGOẠI TẠI ÚC ĐẠI LỢI VÀ TÂN TÂY LAN

(GHPGVNTNHN TẠI UĐL& TTL)


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch Hòa Thượng Đệ Nhất Chứng Minh Thích Quảng Ba – Tu Viện Trưởng Tu Viện Vạn Hạnh – Canberra.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Bổn Điền- Chánh thư ký- HĐCM-CV: GHPGVNTNHN TẠI UĐL & TTL

Kính thưa Hòa Thượng Thích Tâm Minh, Hội Chủ điều hành – GHPGVNTHHN TẠI UĐL & TTL

Ngưỡng bái bạch trên Chư Tôn Hòa Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni.


Kính thưa toàn thể quý Đồng hương và Phật tử - hiện diện trong khung già lam chùa Huyền Quang sáng hôm nay; ngày 4 tháng 2 năm 2024 (nhằm  ngày 25 tháng chạp năm Quý Mão).

Kính bạch quý Ngài!

Kính thưa liệt quý vị

 Giáo hội Hoa kỳ ngàn thu vắng bóng,

Liên châu Phật giáo, nhuộm khí tang buồn,

Giáo hội úc châu, còn vương đương nhiệm.

Tào khê rẽ lối, khúc ca vô thường

Giáo hội ngửa nghiêng, ưu đàm nhạt sắc

Răng rơi môi lạnh, huyễn thân chia lìa

Kiếp người dâng hiến trọn tình linh sơn.

Như một mặt trời vừa khuất bóng để lại một màn đêm còn nóng bức, giữa bầu trời oai bức của khí tiết mùa hè đông bộ Úc châu, đã thể nghiệm được sự vô thường ngắn ngủi thời gian trần thế. Như ánh vầng dương vừa ló dạng đã làm liệm tắt màn tối vô minh, không sắc của cuộc đời. Giáo hội úc châu khi nghe tin Hòa Thượng thượng Thắng hạ Hoan (1928 – 2024), Thuận thế vô thường, ngay vào lúc Tăng Ni tại NSW và ACT Bố tát tại chùa Thiên Ấn. Chư Tôn Đức Tăng Ni rất bàng hoàn và xúc động, khi hay tin Hòa Thượng viên tịch.  Hòa Thượng Thích Quảng Ba đã tức tốc liên lạc với Hòa Thượng Thích Minh Dung tại Hoa Kỳ, để theo dõi tình hình cho chương trình tang lễ. Chánh thư ký văn phòng HĐCM- CV Hòa Thượng Thích Bổn Điền cùng Hội Đồng điều hành Giáo Hội Úc Châu, Hội Chủ Hòa Thượng Thích Tâm Minh hợp khẩn, quyết định ra Thông báo triệu tập lễ tri niệm này.

Truyền thống kỷ niệm của Giáo hội Úc châu khi có các bậc Cao tăng, thạc đức trưởng thượng quy tây, đều làm lễ tưởng niệm, cũng để thầm răn dạy cho toàn thể Tăng ni trẻ trong Giáo hội chúng ta, noi theo công hạnh của người tiền nhân đã tu trì và giữ lấy giềng mối của Đạo pháp. Để duy trì tinh thần sinh hoạt chung của cộng đồng Tăng lữ, quy tắc thiền môn hay đạo phong khả kính của các bậc tiền nhân đã nằm xuống và để lại. Đó là tinh thần nhập thế cao đẹp nhất của vai trò người con sứ giả Đức Như lai.

Đây là giá trị đích thực để chúng ta tổ chức lễ kỷ niệm về ngài, góp một phần tha lực tín ngưỡng nhất tâm cầu nguyện theo truyền thống Phật giáo đại thừa. Nhằm thể hiện sự tôn kính giáo dục, mang ý nghĩa tình linh sơn cốt nhục của văn hóa cữa thiền, cũng là bài học cho hậu thế và hàng Phật tử tại gia, tạc dạ đạo lý uốn nước nhớ nguồn. Để chúng ta ôn lại bài học vô thường, nhằm ý thức rằng chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì cho đạo pháp, cho Giáo hội, mà các vị Tổ sư đã để lại cho chúng ta? Hãy nói cho thể hệ trẻ trong tương lai rằng: Một Đạo Phật hiện hữu như ngày hôm nay, là truyền thống văn hóa được xây đắp bằng con tim khối óc, lẫn cả xương máu và tính mạng của bậc Tiền nhân, mở mang Phật pháp, xây dựng tiền đồ đến các nước Tây phương này.

Kính bạch quý ngài!

Kính thưa quý liệt vị!

Cuộc đời của Đức Cố Hòa Thượng Trưởng Lão Thích Thắng Hoan là một bản trường ca sinh động, để Giáo hội và tăng ni phải học tập và noi gương. Cuộc sống của Ngài là một bậc xuất trần thượng sĩ, đồng ấu xuất gia, tại việt nam rồi ly hương theo làn sóng tỵ nạn của người con Việt Nam. Nhân duyên bổ xứ, Ngài định cư tại đất nước Hoa kỳ. Hòa Thượng đã trải qua gần một thế kỷ trong cuộc đời, chứng kiến biết bao nhiêu sự thay ngôi, đổi chúa cùng sự biến thiên của xã hội. Cuộc sống là động nhưng lòng ngài không động, đời sống của ngài được sâu kết thành một chuỗi dài lịch sử từ Á sang Tây. Sống trong một hiệp chủng quốc văn minh vật chất hàng đầu thế giới, nhưng không vì đó mà bị đắm chìm trong vật chất; tu không chùa, sống vì Giáo hội không phân biệt Nam – Bắc hai thừa. Dành trọn vẹn cuộc đời hi hiến cho Giáo hội, nghiên cứu tu tập cho trước tác phiên dịch, sự hưng vong của đạo pháp cùng dân tộc việt Nam quốc nội và tại Hoa Kỳ.

Đạo nghiệp của ngài là một nhà Duy thức luôn tầm cầu quán chiếu sự biến thiên của vạn pháp, như là sự hoạt động của Tiền Ngũ Thức trong thế giới đầy biến đổi của sum la vạn tượng này. Đó chính là hành trạng của ngài để lại cho hậu thế.

Nhớ lại: khi còn sinh hoạt những Phật sự Giáo hội gặp nhiều thăng trầm, Hòa Thượng Thắng Hoan cùng chư huynh đệ luôn luôn đứng bên nhau, để chèo con thuyền của Giáo hội và tìm hướng bước ra khỏi phong ba bão táp. Đặc biệt những thập niên 2008 đến 2012, sau giáo chỉ số 9 ra đời. Nội công ngoại kích, làm cho tinh hình Phật giáo thế giới lúc này có nhiều biến động, nhưng với sự nhiệt tâm hi hiến cho đạo pháp và tài đức vẹn tròn của các ngài trong Giáo hội các Châu:   

Như là:  Cố Hòa Thượng Hội Chủ thượng Như hạ Huệ - Giáo Hội Úc Châu

             Cố Hòa Thượng Chủ Tịch thượng Minh hạ Tâm – Giáo Hội Âu Châu

và nay là: Cố Hòa thượng Chủ Tịch thượng Thắng hạ Hoan – Giáo Hội Hoa Kỳ.

đã nhẹ nhàng lái con thuyền cập bến trong sự bình an, hài hòa và tương kính. Mặc dù có bất đồng chính kiến trong Tăng đoàn hoặc của Giáo hội, nhưng sự bất đồng đó không cho phép dẫn đến sự chia rẽ. Đó là trách nhiệm và vai trò tôn trọng với nhau, thể hiện tinh thần nghiêm trì giới luật của người con đệ tử Phật. Vì tương lai Phật pháp, vì sự hòa hợp như nước với sữa, vì hậu bối truyền đăng tục diệm, mà ngài phải vượt qua những sóng gió thị phi ở đời để chèo con thuyền Giáo hội.

Ngài ra đi là một mất mác rất lớn cho Phật Giáo nói chung, và Giáo hội Hoa kỳ nói riêng. Nhưng đối  với Giáo hội Úc Châu chúng ta cũng đã thọ ân của ngài rất nhiều; Hòa Thượng là Thành viên Hội Đồng Chứng Minh PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL -TTL  từ năm (1999 - 2024) là trọn 25 năm. Một khoảng thời gian rất lớn cho sự chứng minh gia bị, hoằng dương Phật pháp cho Giáo hội chúng ta.

Do đó, chúng ta là người hậu bối phải cùng nhau xây dựng, giữ lấy truyền thống của Thầy tổ và tiền nhân để lại. Đặc biệt tri ân Hòa Thượng Chánh thư ký- HĐCM – CV Thích Bổn Điền cùng sự dứt khoát tinh tế của Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tâm Minh mới đem lại buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh và hòa hợp. Để nhất tâm hướng về:

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Trí Bản Đột Không Pháp Phái, Đệ Nhị Thập Tứ Thế, Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ Giáo Hội, Giáo Phẩm Hội Đồng Chánh Văn Phòng, Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi Và Tân Tây Lan. Húy thượng Thắng hạ Hoan, Hiệu Long Hoan. Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Nghê Đài Thùy Từ Chứng Giám.

Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát ma Ha Tát.

Sydney ngày 4/2/2024

Khể Thủ

Tỳ Kheo Thích Đạo Hiển



 

 

tuong niem-ht thang hoan (1)tuong niem-ht thang hoan (2)tuong niem-ht thang hoan (3)tuong niem-ht thang hoan (4)tuong niem-ht thang hoan (5)tuong niem-ht thang hoan (6)tuong niem-ht thang hoan (7)tuong niem-ht thang hoan (8)tuong niem-ht thang hoan (9)tuong niem-ht thang hoan (10)tuong niem-ht thang hoan (11)tuong niem-ht thang hoan (12)tuong niem-ht thang hoan (13)tuong niem-ht thang hoan (14)tuong niem-ht thang hoan (16)tuong niem-ht thang hoan (17)tuong niem-ht thang hoan (18)tuong niem-ht thang hoan (19)tuong niem-ht thang hoan (21)tuong niem-ht thang hoan (22)tuong niem-ht thang hoan (23)tuong niem-ht thang hoan (24)tuong niem-ht thang hoan (25)tuong niem-ht thang hoan (26)tuong niem-ht thang hoan (27)tuong niem-ht thang hoan (28)tuong niem-ht thang hoan (29)tuong niem-ht thang hoan (30)tuong niem-ht thang hoan (31)tuong niem-ht thang hoan (32)tuong niem-ht thang hoan (33)tuong niem-ht thang hoan (34)tuong niem-ht thang hoan (35)tuong niem-ht thang hoan (36)tuong niem-ht thang hoan (37)tuong niem-ht thang hoan (38)tuong niem-ht thang hoan (39)tuong niem-ht thang hoan (40)tuong niem-ht thang hoan (41)tuong niem-ht thang hoan (42)tuong niem-ht thang hoan (43)tuong niem-ht thang hoan (44)tuong niem-ht thang hoan (45)tuong niem-ht thang hoan (46)tuong niem-ht thang hoan (47)tuong niem-ht thang hoan (48)tuong niem-ht thang hoan (49)tuong niem-ht thang hoan (50)tuong niem-ht thang hoan (51)tuong niem-ht thang hoan (52)tuong niem-ht thang hoan (53)tuong niem-ht thang hoan (54)tuong niem-ht thang hoan (55)tuong niem-ht thang hoan (56)tuong niem-ht thang hoan (57)tuong niem-ht thang hoan (58)tuong niem-ht thang hoan (59)tuong niem-ht thang hoan (60)tuong niem-ht thang hoan (61)tuong niem-ht thang hoan (62)tuong niem-ht thang hoan (63)tuong niem-ht thang hoan (64)tuong niem-ht thang hoan (65)tuong niem-ht thang hoan (66)tuong niem-ht thang hoan (67)tuong niem-ht thang hoan (68)tuong niem-ht thang hoan (69)tuong niem-ht thang hoan (70)tuong niem-ht thang hoan (71)tuong niem-ht thang hoan (72)tuong niem-ht thang hoan (73)tuong niem-ht thang hoan (74)tuong niem-ht thang hoan (75)tuong niem-ht thang hoan (76)tuong niem-ht thang hoan (77)tuong niem-ht thang hoan (78)tuong niem-ht thang hoan (79)tuong niem-ht thang hoan (80)tuong niem-ht thang hoan (81)tuong niem-ht thang hoan (82)tuong niem-ht thang hoan (83)tuong niem-ht thang hoan (84)tuong niem-ht thang hoan (85)tuong niem-ht thang hoan (86)tuong niem-ht thang hoan (87)tuong niem-ht thang hoan (88)tuong niem-ht thang hoan (89)tuong niem-ht thang hoan (90)tuong niem-ht thang hoan (91)tuong niem-ht thang hoan (92)tuong niem-ht thang hoan (93)tuong niem-ht thang hoan (94)tuong niem-ht thang hoan (95)tuong niem-ht thang hoan (96)tuong niem-ht thang hoan (97)tuong niem-ht thang hoan (98)tuong niem-ht thang hoan (99)tuong niem-ht thang hoan (100)tuong niem-ht thang hoan (101)tuong niem-ht thang hoan (102)tuong niem-ht thang hoan (103)tuong niem-ht thang hoan (104)tuong niem-ht thang hoan (105)tuong niem-ht thang hoan (106)tuong niem-ht thang hoan (107)tuong niem-ht thang hoan (108)tuong niem-ht thang hoan (109)tuong niem-ht thang hoan (110)tuong niem-ht thang hoan (111)tuong niem-ht thang hoan (112)tuong niem-ht thang hoan (113)tuong niem-ht thang hoan (114)tuong niem-ht thang hoan (115)tuong niem-ht thang hoan (116)tuong niem-ht thang hoan (117)tuong niem-ht thang hoan (118)tuong niem-ht thang hoan (119)tuong niem-ht thang hoan (120)tuong niem-ht thang hoan (121)tuong niem-ht thang hoan (122)tuong niem-ht thang hoan (123)tuong niem-ht thang hoan (124)tuong niem-ht thang hoan (125)tuong niem-ht thang hoan (126)tuong niem-ht thang hoan (127)tuong niem-ht thang hoan (128)tuong niem-ht thang hoan (129)tuong niem-ht thang hoan (130)tuong niem-ht thang hoan (131)tuong niem-ht thang hoan (132)tuong niem-ht thang hoan (133)tuong niem-ht thang hoan (134)tuong niem-ht thang hoan (135)tuong niem-ht thang hoan (136)tuong niem-ht thang hoan (137)tuong niem-ht thang hoan (138)tuong niem-ht thang hoan (139)tuong niem-ht thang hoan (140)tuong niem-ht thang hoan (141)tuong niem-ht thang hoan (142)tuong niem-ht thang hoan (143)tuong niem-ht thang hoan (144)tuong niem-ht thang hoan (145)tuong niem-ht thang hoan (146)tuong niem-ht thang hoan (147)tuong niem-ht thang hoan (148)tuong niem-ht thang hoan (149)tuong niem-ht thang hoan (150)tuong niem-ht thang hoan (151)tuong niem-ht thang hoan (152)tuong niem-ht thang hoan (153)tuong niem-ht thang hoan (154)tuong niem-ht thang hoan (155)tuong niem-ht thang hoan (156)tuong niem-ht thang hoan (157)tuong niem-ht thang hoan (158)tuong niem-ht thang hoan (159)tuong niem-ht thang hoan (160)tuong niem-ht thang hoan (161)tuong niem-ht thang hoan (162)tuong niem-ht thang hoan (163)tuong niem-ht thang hoan (164)tuong niem-ht thang hoan (165)tuong niem-ht thang hoan (166)tuong niem-ht thang hoan (167)tuong niem-ht thang hoan (168)tuong niem-ht thang hoan (169)tuong niem-ht thang hoan (170)tuong niem-ht thang hoan (171)tuong niem-ht thang hoan (172)tuong niem-ht thang hoan (173)tuong niem-ht thang hoan (174)tuong niem-ht thang hoan (175)tuong niem-ht thang hoan (176)tuong niem-ht thang hoan (177)tuong niem-ht thang hoan (178)tuong niem-ht thang hoan (179)tuong niem-ht thang hoan (180)tuong niem-ht thang hoan (181)tuong niem-ht thang hoan (182)tuong niem-ht thang hoan (183)tuong niem-ht thang hoan (184)tuong niem-ht thang hoan (186)tuong niem-ht thang hoan (187)tuong niem-ht thang hoan (188)tuong niem-ht thang hoan (189)tuong niem-ht thang hoan (190)tuong niem-ht thang hoan (191)tuong niem-ht thang hoan (192)tuong niem-ht thang hoan (193)tuong niem-ht thang hoan (194)tuong niem-ht thang hoan (195)tuong niem-ht thang hoan (196)tuong niem-ht thang hoan (197)tuong niem-ht thang hoan (198)tuong niem-ht thang hoan (199)tuong niem-ht thang hoan (200)tuong niem-ht thang hoan (201)tuong niem-ht thang hoan (202)tuong niem-ht thang hoan (203)tuong niem-ht thang hoan (204)tuong niem-ht thang hoan (205)tuong niem-ht thang hoan (206)tuong niem-ht thang hoan (207)tuong niem-ht thang hoan (208)tuong niem-ht thang hoan (209)tuong niem-ht thang hoan (210)tuong niem-ht thang hoan (211)tuong niem-ht thang hoan (212)tuong niem-ht thang hoan (213)tuong niem-ht thang hoan (214)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8086)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4853)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37209)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6141)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5750)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5458)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8765)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]