Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập “Đạo Phật và Thanh Niên”

30/11/202310:21(Xem: 1899)
Tuyển tập “Đạo Phật và Thanh Niên”



dao phat va thanh nien


Lời Thưa: Sư-Huynh Phổ Hòa-Hồng Liên Phan Cảnh Tuân đã mất, mà di sản tinh thần vẫn còn. Đó là tâm nguyện giáo dưỡng các thế hệ đàn em áo lam trở thành những công dân-phật tử có ích cho xã hội. Một trong những ước mơ mà Sư-Huynh nhắn nhủ là thực hiện một Tủ sách GĐPT. Loại sách gọn nhỏ, gối đầu giường và bỏ túi, có thể mang theo balô mỗi khi đi trại. Tủ sách nhiều thể loại xây dựng kiến thức và thăng hoa tâm hồn áo lam. Thời gian không làm phôi phai những giá trị tinh thần đã trở thành di sản mà bao thế hệ Đàn Anh đã trao truyền cho các em bằng lời nói và hành động, bằng cả những phương tiện thiện xảo không lời… TỦ SÁCH PHỔ HÒA ra đời bằng chính những tâm nguyện của Người Xưa đó, thuận pháp mà kết trái đơm hoa… Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.

Dịp này, tuyển tập “Đạo Phật và Thanh Niên” được ấn hành và chỉ phát tặng, đặc biệt gởi đến anh-chị-em lam viên trong nước lẫn ngoài, trong tâm tình thù ân công ơn sâu dày của một bậc Thầy, trọn một đời giáo dưỡng bao thế hệ tuổi trẻ Phật giáo Việt Nam, trong đó GĐPTVN luôn là một niềm kỳ vọng sâu lắng nhất của Thầy!

*

Vị Sư đó, dáng mảnh khảnh, mắt tinh anh, từ thời trẻ, đã từng đứng trên bục giảng Viện Đại Học Vạn Hạnh (Sài gòn trước 1975), thao thao giảng những luận đề triết học Đông Tây Kim Cổ, những khảo luận uyên thâm về Phật Giáo Nguyên Thỉ, Phát Triển, Thiền Tông…

Vị Sư đó, cũng có thời, quay lưng với thủ đô (miền Nam) náo hoạt, lui về đồi Trại Thủy (Nha Trang) lộng gió biển khơi, quây quần cùng lớp tăng sinh Phật Học Viện Hải Đức, say sưa trao truyền, chia sẻ sở học và kiến văn sâu rộng của mình.

Vị Sư đó, vào tuổi trung niên, đã lừng lửng dấn bước chân Bồ Tát bất thối vào chốn nguy nan để dậy lên lớp lớp hải triều gọi kêu tự do, dân chủ công bình cho nhân sinh giữa vô minh dằng dặt.

Vị Sư đó, mọi thời mọi lúc, cứ như nhất hành trạng vô úy, thong dong với chiếc lam y, tự tại trong áo nâu sồng, dù đang giữa thị tứ đô hội, giữa núi đồi cỏ cây tịnh mặc, hay giữa chốn ngục tù với án tử hình vô nghĩa (1988).

Ngày nay, vị Sư đó – Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ – đến với các bạn trẻ trong và ngoài nước, gởi trao lời pháp thân tình: “Đạo Phật và thanh niên.” Mỗi một chúng ta chắc hẳn sẽ đón nhận bài pháp theo từng tâm đắc khác nhau.

Mỗi chúng ta, với tâm thức và tấm lòng có thể riêng khác, nếu ví được như những chiếc chuông treo, và lời pháp của Thầy như khúc dùi khua, đủ sức khua chuông ngân tiếng. Tiếng chuông, dù ngắn hay dài, dù trầm hay thanh, dù thong thả hay xôn xao, có lẽ nếu Thầy nghe được, chắc Thầy cũng xem như lời pháp vọng âm từ chúng ta. (Như có lần Thầy nghe một người bạn – có lẽ cũng là bạn trẻ – tâm sự về tình yêu và sự vĩnh hằng và Thầy xem đó là một “bài pháp rất hay”).

Hôm nay, bài pháp thoại “Đạo Phật và thanh niên” của Thầy Tuệ Sỹ, như một tách trà còn bốc khói, chúng ta thử đón nhận và thưởng thức, và mỗi bạn riêng mình biết rõ hương vị. Dù tâm cảm của mỗi bạn có sao đi nữa, các bạn hẳn đồng ý rằng bài pháp đã được trao gởi trong ánh sáng của Đạo Giải Thoát – Giải thoát khỏi mọi hệ lụy tầm thường. Giải thoát khỏi những trói buộc của tâm/vật lý phi nghĩa. Giải thoát khỏi những giới hạn cứng nhắc của lý tưởng, ý hệ, tín điều mù lòa.

Trong đời thường, tìm kiếm giải thoát đó còn có nghĩa là phóng thoát đến tự do đích thực. Và trong ý nghĩa giải thoát/tự do này, bài pháp của Thầy Tuệ Sỹ đã không thúc dục, gò ép các bạn vào một định khung, một khuôn khổ nào. “Tự mình thắp đuốc mà đi.” Mỗi một bạn trẻ tự tìm thấy chánh pháp cho chính mình!

Hoa Đàm, 2009


dao phat va thanh nien

From a young age, the esteemed monk, with a slender physique and keen, lively eyes, delivered philosophy lectures at Vạn Hạnh University (in Saigon as known before 1975). He taught profound wisdom on various branches of Buddhism, including Theravada Buddhism, Mahayana Buddhism, and Zen Buddhism, spanning from ancient to modern times and Eastern to Western philosophies.

Once, this revered monk abandoned the vibrant capital of the South and sought refuge in Trại Thuỷ hill (Nha Trang), a winding coastal city, where he devoted himself fervently to instructing and imparting his vast wisdom and understanding to the Buddhist monks enrolled at Hải Đức Buddhist Institute.

At around middle age, the revered monk fearlessly traversed treacherous terrain in the footsteps of the Bodhisattva, imparting knowledge to countless generations and advocating for the principles of liberty, democracy, and equity in the realm of human existence.

That venerable monk looked to act fearlessly, leisurely in his gray robe, at ease in his brown robe, whether he was in the middle of the city, the tranquil highlands and hills, or a prison with an absurd death sentence (1988).

Today, the esteemed monk, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, is still teaching the youth and individuals both in Vietnam and abroad, imparting benevolent teachings on the principles of Buddhism specifically tailored for the younger generation. Undoubtedly, the message will elicit varied responses from each of us, contingent upon our respective interests.

Each individual might be likened to a hanging bell, with their own cognitive and emotional faculties. The teachings of the Venerable, like a chisel, have the precise impact required to elicit a resonant sound from the bell. If the Venerable perceives the sound of the bell, regardless of its duration, pitch, volume, or intensity, he would interpret it as the manifestation of the Dharma reflecting from us. (For instance, I once overheard a companion, potentially a youthful companion, discussing love and eternity, and I found it to be an exceptionally insightful discourse on Buddhist teachings).

Nowadays, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ’s Dharma talk titled “Buddhism and the Youth” is like a freshly brewed cup of tea. We strive to receive and savor it, with each individual experiencing their unique taste. Regardless of your sentiments, it is universally acknowledged that the Dharma talk was presented within the framework of the Path of Liberation, which aims to free individuals from all trivial repercussions. Freedom from the constraints of mental and physical folly. Liberty from the rigid limitations of ideals, ideologies, and unquestioning beliefs.

Discovering emancipation in daily existence also entails seeking absolute independence. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ’s teachings did not impose any predetermined structure or framework on your understanding of liberation or freedom.

(Just) “Ignite your torch to pursue.” Each young person must discover his or her own Dharma.

Hoa Đàm Group.

Translated by: Tâm Thường Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2012(Xem: 7686)
Hòa thượng Thích Duy Lực, pháp danh Duy Lực, pháp tự Giác Khai, nối pháp thiền phái Lâm Tế. Ngài thế danh La Dũ, sinh ngày 5 tháng 5 năm Quý Hợi 1923, nhằm Trung Hoa Dân quốc thứ 12, tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; thân phụ là cụ ông La Xương, thân mẫu là cụ bà Lưu Thị. Ngài sinh trưởng trong một gia đình chuyên nghề nông trang, quy kính Tam bảo. Năm Mậu Dần 1938, Ngài được 16 tuổi, vừa học xong tiểu học thì phải lên đường theo cha sang Việt Nam sinh sống. Khi mới sang, gia đình Ngài dừng chân ở Cần Thơ lập nghiệp; trong những lúc rỗi rảnh Ngài thường tranh thủ tự học thên Hoa văn và quốc ngữ Việt Nam.
20/07/2012(Xem: 9562)
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685–1768) là vị Tổ trung hưng thiền Lâm Tế tại Nhật Bản. Xa rời phương thức đánh hét cùng các ngôn ngữ siêu tuyệt, Ngài cố công diễn tả Thiền bằng ngôn ngữ dễ hiểu để tầng lớp bình dân có thể hiểu được.
19/07/2012(Xem: 6763)
Qua hàng ngàn năm Lịch sử của Dân tộc, hơn 2000 năm có mặt trên đất nước, Phật giáo đã đóng góp cho Tổ quốc một thời gian dài trên dưới 400 năm an bình thịnh vượng, chưa nói đến những thời đại riêng lẻ ngắn ngủi.
03/07/2012(Xem: 11626)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-10-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp).
30/06/2012(Xem: 10326)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm (1928 - 2012)
24/06/2012(Xem: 14338)
Kính lạy tôn dung Ngài Con xin tìm lại dấu xưa 39 năm, hai thế kỷ sao vừa Nín thở, lặng yên, đọc từng con chữ
12/06/2012(Xem: 6133)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
11/06/2012(Xem: 6240)
Sự nghiệp thiền sư Tăng Hội rất lớn lao. Nhờ vào những trước tác của Thầy mà ta biết được hành tướng của sự thực tập thiền tại trung tâm Luy Lâu Việt Nam và tại trung tâm Kiến Nghiệp Trung Quốc ngày xưa. Tư tưởng thiền của thầy Tăng Hội là tư tưởng thiền Đại Thừa, đi tiên phong cho cả tư tưởng Hoa Nghiêm và Duy Thức Bao giờ các chùa Việt Nam sẽ thờ tổ Khương Tăng Hội Hiện nay chúng ta đang ở thế kỷ XXI với nền văn minh rực rỡ, với nhiều thiết bị hiện đại, với mức sống rất cao, với vốn hiểu biết rất thien su khuong tang hoi.jpg
10/06/2012(Xem: 14729)
Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam, là con thứ sáu trong một gia đình mười hai anh chị em. Thân sinh của Cố Trưởng Lão Hoà Thượng là cụ Trương Xuân Quảng, mất năm 1945, nguyên quán làng Kim Thành, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, làm quan dưới thời Pháp thuộc, được bổ nhậm chức Kiểm Học (tương đương với Trưởng Ty Nha Học Chánh dưới thời các chính phủ quốc gia sau này) tỉnh Bình Thuận năm 1933 – 1939, và Đốc Học tỉnh Quảng Ngãi năm 1940 – 1945. Nhờ túc duyên với Phật Pháp, nên đến năm 1950, Cố Trưởng Lão Hoà Thượng đến Chù
06/06/2012(Xem: 14863)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]