Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ lược tiểu sử Hòa Thượng Thích Quang Đạo, Viện chủ chùa Phước Viên

12/10/202315:36(Xem: 2873)
Sơ lược tiểu sử Hòa Thượng Thích Quang Đạo, Viện chủ chùa Phước Viên



HT Thich Quang Dao
Sơ lược tiểu sử 
HÒA THƯỢNG THÍCH QUANG ĐẠO

(1941-2017)



I. THÂN THẾ

Thầy thế danh Văn Ngọc Minh, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), tại thôn Long Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Thân phụ là cụ ông Văn Ngọc Toàn, thân mẫu là cụ bà Văn Thị Lương.

Thầy xuất thân trong gia đình nông dân, hiền lương, chất phác, thờ cúng Tổ tiên, thâm tín Tam bảo. Thầy là con thứ 2 trong gia đình có 13 người con, 10 trai và 3 gái.

II. XUẤT GIA – THỌ GIỚI

Thầy húy Nguyên Minh, tự Quang Đạo, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc dòng Lâm Tế Chánh tông đời thứ 44 (thế hệ thứ 10 Pháp phái Liễu Quán).

– Năm 15 tuổi (1956), quy y với Hòa thượng thượng Thiện hạ Minh tại chùa Phật học tỉnh Quảng Trị.

– Năm 17 tuổi (1958), tập sự xuất gia tại chùa Phật học, Quảng Trị.

– Năm 19 tuổi (1960), trở về quê giúp việc gia đình.

– Năm 21 tuổi (1962), chính thức xuất gia, được Hòa thượng Bổn sư gửi tu học tại chùa Từ Quang, Huế.

– Năm 1963, thọ giới Sa di tại Tổ đình Linh Sơn, Vạn Giả, Vạn Ninh, Khánh Hòa.

– Năm 1965, thọ Đại giới tại Giới đàn Vạn Hạnh, tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu – Huế, do Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên, Đệ nhị Tăng thống GHPGVNTN, làm Đàn đầu truyền giới.

– Năm 1977, thọ Bồ tát giới tại Giới đàn Ấn Quang, do Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu làm Thân giáo sư.

III. TU HỌC

Vì hoàn cảnh đặc biệt của bản thân và sự chi phối của thời cuộc, nên sau khi xuất gia được 3 tháng, Thầy được Hòa thượng Bổn sư gửi vào tu học tại chùa Sắc tứ Khải Đoan, Buôn Mê Thuột. Tại đây, Thầy nỗ lực tu học song song hai chương trình. Về nội điển, Thầy tự mình nghiên tầm 4 cuốn luật Tiểu và Đại pháp căn bản. Về ngoại điển, học Trung học Đệ nhất cấp tại trường Bồ Đề Ban Mê Thuột, Trung học Đệ nhị cấp tại trường Trung học Công lập Ban Mê Thuột và Tốt nghiệp Tú tài I năm 1966. Sau đó, Thầy về tu học tại Tổ đình Long Sơn, Nha Trang, học hỏi Phật pháp với Đại lão Hòa thượng Thích Trí Nghiêm. Đến năm 1967, Thầy tiếp tục Tốt nghiệp Tú tài II.

– Năm 1968, Thầy vào tu học tại tu viện Quảng Hương Già Lam do Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám viện. Theo học phân khoa Phật học và Khoa học Xã hội tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Đồng thời dạy học tại trường Bồ Đề, Sài Gòn và trường Đạt Đức, Gia Định.

– Năm 1971, tốt nghiệp Cử nhân Phật học và Khoa học Xã hội.

– Năm 1972, nhập thất tu thiền định tại Tổ đình Giác Hải và Linh Sơn, Vạn Giả, Vạn Ninh, Khánh Hòa.

– Năm 1973, được tỉnh Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Biên Hòa bổ nhiệm trụ trì chùa Phước Viện, phường Tân Hiệp, Tp. Biên Hòa cho đến ngày nay.

IV. HÀNH ĐẠO

Với chí nguyện “Thượng cầu hạ hóa” cộng với đức tính trung kiên, từ ái, nhẫn nại, chịu đựng, từ khi nhận trách nhiệm trụ trì chùa Phước Viên đến nay, Thầy đã cùng với chư Tôn đức trong Giáo hội tỉnh nhà đã tác thành các Phật sự:

1. THAM GIA TỔ CHỨC GIÁO HỘI

– Năm 1973, đặc ủy kiến thiết Ban đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Biên Hòa.

– Năm 1976, kiêm nhiệm trụ trì chùa Tịnh Nghiêm, phường Bình Đa, Tp. Biên Hòa.

– Năm 1982, Ủy viên Ban Trị sự Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai.

– Trưởng ban Hoằng pháp Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai khóa II và III.

– Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh Đồng Nai khóa IV, V, VI và VII.

– Năm 1990, Hiệu phó Học vụ đặc trách Tài chánh kiêm Trưởng ban xây dựng trường TCPH tỉnh Đồng Nai.

– Năm 2002, Phó ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

2. KHAI SƠN, TRÙNG KIẾN TỰ VIỆN

* Trùng kiến chùa Phước Viên

– Năm 1985, xây dựng chánh điện.

– Năm 1986, xây dựng tháp Liên Trì thờ Tây phương Tam thánh.

– Năm 1987, đúc đại hồng chung.

– Năm 1988, xây dựng cổng tam quan.

– Năm 1992, xây dựng giảng đường, Tăng đường và các công trình phụ.

– Năm 2002, xây dựng tàng kinh các.

* Khai sơn, trùng kiến các chùa

– Năm 1989, khai sơn chùa Phước Minh, xã Hố Nai III, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 1992, trùng kiến chùa Bửu Long, thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 1994, khai sơn chùa Phước Điền, xã Phú Điền, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 1997, cùng chư Tôn đức đồng hương Quảng Trị đại trùng tu Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, Quảng Trị.

– Năm 2001, trợ duyên cho Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu đại trùng tu Tổ đình Thuyền Tôn, Huế.

– Năm 2003, xây dựng trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Nai cơ sở Ni, xã Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 2004, đại trùng tu chùa Long Hưng, nơi quê hương Thầy sinh trưởng.

– Năm 2009, xây dựng trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Nai cơ sở Tăng, xã Phước Tân, Tp, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

3. THAM GIA ĐẠI GIỚI ĐÀN

– Từ năm 1982, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai cử Thầy vào Hội đồng Thập sư, phụ tá Yết ma A – xà – lê và Tôn chứng sư. Đặc biệt, Đại Giới đàn Huệ Thành năm 2001, Thầy được mời làm Tuyên Luật sư, Khai đạo Giới tử.

– Giáo thọ A – xà – lê Đại Giới đàn Nguyên Thiều – Siêu Bạch năm 2013.

– Giáo thọ A – xà – lê Đại Giới đàn Minh Vật – Nhất Tri, Đại Giới đàn Thiện Khải năm 2015.

4. TIẾP TĂNG ĐỘ CHÚNG

Có lẽ nhờ đầy đủ túc duyên nhiều đời nên Thầy rất có duyên nuôi dạy đệ tử. Hiện tại, đệ tử xuất gia có hơn 100 vị. Trong đó, đại đa số đã trưởng thành và đang đóng góp Phật sự cho Giáo hội. Có gần 60 vị đi trụ trì và làm các Phật sự ở các nơi trong và ngoài nước. Thầy đã quy y và truyền giới cho hơn 10 ngàn Phật tử tại gia.

Ngoài ra, Thầy còn lập Đạo tràng Phước Viên tại Hải ngoại tại Mỹ quốc. Kêu gọi các Phật tử tại Hoa Kỳ đóng góp giúp đỡ cho 25 cơ sở gồm các trường Phật học và một số chùa tại Việt Nam, mỗi tháng trung bình 3.500 USD. Đồng thời tài trợ cho hơn 60 Tăng Ni sinh viên đang du học tại Ấn Độ, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Tích Lan, Nhật Bản. Trong đó có hơn 20 vị đã tốt nghiệp Tiến sĩ và Thạc sĩ.


5. GIÁO DỤC TĂNG NI

Thầy giữ chúc vụ Hiệu phó Học vụ đặc trách Tài chánh kiêm Trưởng ban xây dựng trường TCPH tỉnh Đồng Nai từ năm 1990 đến nay. Trải qua 7 khóa học đã đào tạo gần 1000 Tăng, Ni sinh Tốt nghiệp Trung cấp Phật học và hơn 300 vị đang theo học khóa VIII (2017 – 2020) tại bổn trường.


6. HOÀNG PHÁP

Với chức vụ Phó ban Trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh Đồng Nai, Thầy cùng Hòa thượng Thích Diệu Tâm, Phó ban Thường trực ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai và chư Tôn đức đến chứng minh, thuyết pháp cho các Phật tử tại các lễ Đặt đá, Khánh thành chùa, An vị tượng Phật, đúc Đại hồng chung, Đại trai đàn Chẩn tế, các khóa An cư, các Đạo tràng thọ Bát quan trai, các ngày trọng lễ của Phật giáo như Phật đản, Vu lan…, ở vùng sâu vùng xa như các huyện Xuyên Mộc (Đồng Nai cũ), Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc…nơi nào có nhu cầu Phật sự, Thầy đều đáp ứng và đóng góp một phần lớn cho việc Hoằng dương Phật pháp tại tỉnh nhà.


V. VIÊN TỊCH

Sinh thời, Thầy có chí nguyện chuyên tu thiền định. Khởi đầu là phát tâm nhập thất tịnh tu tại núi rừng Vạn Giã, Khánh Hòa vào năm 1972. Những năm về sau, dù bộn bề Phật sự nhưng Thầy vẫn an nhiên với pháp hành thiền và các pháp tu tương hỗ khác.

Trong phương châm giáo dục mà Thầy đã đề xuất, gồm Học lý – Quán chiếu – Tổ chức cũng phần nào biểu lộ chủ trương cân đối giữa pháp học và pháp hành. Thân mang bệnh duyên, sở tật thường đeo đẳng, nhưng nhờ tu tập tinh cần, Thầy đã vượt lên nỗi đau thân thể để chu toàn Phật sự.


Xuất xử tùy duyên, Thầy luôn nhu nhuyến trong tổ chức và điều hành Phật sự, lấy sự hài hòa, ổn định làm tiêu chí để hướng về. Thế nên, dù đệ tử có Bắc, Trung, Nam, dù Phật sự có khi rày khi khác, nhưng tâm của Thầy lúc nào cũng luôn dung dị, thong dong.

Những năm cuối đời, thân lâm trọng bệnh, nhưng Thầy vẫn canh cánh bên lòng sự nghiệp đào tạo Tăng tài với bản hoài kế vãng khai lai.

Cuộc đời của Thầy đúng như bài kệ của Đại sư Chánh Thống phó pháp cho Thầy:

Nguyên Minh minh phẩm chiếu

Quang Đạo đạo thường bằng

Thỉ chung niệm vô niệm

Phật quả tự nhiên thành.

Đời Thầy bát ngát hương thiền, ứng cơ vô ngại. Thân thường bịnh, chí kiên trung. Tướng uy dũng, tâm tràn đầy từ ái. Nhìn thế giới như không hoa, nhân sinh như mộng huyễn. Sắc không đồng nhất thể, quán thể nhaaph Pháp giới tánh làm tiêu hướng tu hành.

Mùa Thu năm Đinh Dậu, vào lúc 16 giờ 15 phút, ngày 16 tháng 7 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 06 tháng 9 năm 2017), Thầy đã an tường xã bỏ báo thân, thọ 77 tuổi đời, 52 tuổi đạo.

Nam mô tự lâm tế chánh tông, tứ thập tứ thế, Liễu Quán pháp phái, Phước Viên đường thượng, húy thượng NGUYÊN hạ MINH, tự QUANG ĐẠO, hiệu CHIẾU NHIÊN Hòa thượng Giác linh.

Môn đồ pháp quyến
Phụng soạn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8187)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5192)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37459)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6242)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6189)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5827)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5715)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5988)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5522)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8857)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]