Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ lược tiểu sử Hòa Thượng Thích Quang Đạo, Viện chủ chùa Phước Viên

12/10/202315:36(Xem: 2999)
Sơ lược tiểu sử Hòa Thượng Thích Quang Đạo, Viện chủ chùa Phước Viên



HT Thich Quang Dao
Sơ lược tiểu sử 
HÒA THƯỢNG THÍCH QUANG ĐẠO

(1941-2017)



I. THÂN THẾ

Thầy thế danh Văn Ngọc Minh, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), tại thôn Long Hưng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Thân phụ là cụ ông Văn Ngọc Toàn, thân mẫu là cụ bà Văn Thị Lương.

Thầy xuất thân trong gia đình nông dân, hiền lương, chất phác, thờ cúng Tổ tiên, thâm tín Tam bảo. Thầy là con thứ 2 trong gia đình có 13 người con, 10 trai và 3 gái.

II. XUẤT GIA – THỌ GIỚI

Thầy húy Nguyên Minh, tự Quang Đạo, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc dòng Lâm Tế Chánh tông đời thứ 44 (thế hệ thứ 10 Pháp phái Liễu Quán).

– Năm 15 tuổi (1956), quy y với Hòa thượng thượng Thiện hạ Minh tại chùa Phật học tỉnh Quảng Trị.

– Năm 17 tuổi (1958), tập sự xuất gia tại chùa Phật học, Quảng Trị.

– Năm 19 tuổi (1960), trở về quê giúp việc gia đình.

– Năm 21 tuổi (1962), chính thức xuất gia, được Hòa thượng Bổn sư gửi tu học tại chùa Từ Quang, Huế.

– Năm 1963, thọ giới Sa di tại Tổ đình Linh Sơn, Vạn Giả, Vạn Ninh, Khánh Hòa.

– Năm 1965, thọ Đại giới tại Giới đàn Vạn Hạnh, tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu – Huế, do Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên, Đệ nhị Tăng thống GHPGVNTN, làm Đàn đầu truyền giới.

– Năm 1977, thọ Bồ tát giới tại Giới đàn Ấn Quang, do Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu làm Thân giáo sư.

III. TU HỌC

Vì hoàn cảnh đặc biệt của bản thân và sự chi phối của thời cuộc, nên sau khi xuất gia được 3 tháng, Thầy được Hòa thượng Bổn sư gửi vào tu học tại chùa Sắc tứ Khải Đoan, Buôn Mê Thuột. Tại đây, Thầy nỗ lực tu học song song hai chương trình. Về nội điển, Thầy tự mình nghiên tầm 4 cuốn luật Tiểu và Đại pháp căn bản. Về ngoại điển, học Trung học Đệ nhất cấp tại trường Bồ Đề Ban Mê Thuột, Trung học Đệ nhị cấp tại trường Trung học Công lập Ban Mê Thuột và Tốt nghiệp Tú tài I năm 1966. Sau đó, Thầy về tu học tại Tổ đình Long Sơn, Nha Trang, học hỏi Phật pháp với Đại lão Hòa thượng Thích Trí Nghiêm. Đến năm 1967, Thầy tiếp tục Tốt nghiệp Tú tài II.

– Năm 1968, Thầy vào tu học tại tu viện Quảng Hương Già Lam do Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám viện. Theo học phân khoa Phật học và Khoa học Xã hội tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Đồng thời dạy học tại trường Bồ Đề, Sài Gòn và trường Đạt Đức, Gia Định.

– Năm 1971, tốt nghiệp Cử nhân Phật học và Khoa học Xã hội.

– Năm 1972, nhập thất tu thiền định tại Tổ đình Giác Hải và Linh Sơn, Vạn Giả, Vạn Ninh, Khánh Hòa.

– Năm 1973, được tỉnh Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Biên Hòa bổ nhiệm trụ trì chùa Phước Viện, phường Tân Hiệp, Tp. Biên Hòa cho đến ngày nay.

IV. HÀNH ĐẠO

Với chí nguyện “Thượng cầu hạ hóa” cộng với đức tính trung kiên, từ ái, nhẫn nại, chịu đựng, từ khi nhận trách nhiệm trụ trì chùa Phước Viên đến nay, Thầy đã cùng với chư Tôn đức trong Giáo hội tỉnh nhà đã tác thành các Phật sự:

1. THAM GIA TỔ CHỨC GIÁO HỘI

– Năm 1973, đặc ủy kiến thiết Ban đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Biên Hòa.

– Năm 1976, kiêm nhiệm trụ trì chùa Tịnh Nghiêm, phường Bình Đa, Tp. Biên Hòa.

– Năm 1982, Ủy viên Ban Trị sự Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai.

– Trưởng ban Hoằng pháp Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai khóa II và III.

– Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh Đồng Nai khóa IV, V, VI và VII.

– Năm 1990, Hiệu phó Học vụ đặc trách Tài chánh kiêm Trưởng ban xây dựng trường TCPH tỉnh Đồng Nai.

– Năm 2002, Phó ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

2. KHAI SƠN, TRÙNG KIẾN TỰ VIỆN

* Trùng kiến chùa Phước Viên

– Năm 1985, xây dựng chánh điện.

– Năm 1986, xây dựng tháp Liên Trì thờ Tây phương Tam thánh.

– Năm 1987, đúc đại hồng chung.

– Năm 1988, xây dựng cổng tam quan.

– Năm 1992, xây dựng giảng đường, Tăng đường và các công trình phụ.

– Năm 2002, xây dựng tàng kinh các.

* Khai sơn, trùng kiến các chùa

– Năm 1989, khai sơn chùa Phước Minh, xã Hố Nai III, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 1992, trùng kiến chùa Bửu Long, thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 1994, khai sơn chùa Phước Điền, xã Phú Điền, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 1997, cùng chư Tôn đức đồng hương Quảng Trị đại trùng tu Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, Quảng Trị.

– Năm 2001, trợ duyên cho Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu đại trùng tu Tổ đình Thuyền Tôn, Huế.

– Năm 2003, xây dựng trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Nai cơ sở Ni, xã Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

– Năm 2004, đại trùng tu chùa Long Hưng, nơi quê hương Thầy sinh trưởng.

– Năm 2009, xây dựng trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Nai cơ sở Tăng, xã Phước Tân, Tp, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

3. THAM GIA ĐẠI GIỚI ĐÀN

– Từ năm 1982, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai cử Thầy vào Hội đồng Thập sư, phụ tá Yết ma A – xà – lê và Tôn chứng sư. Đặc biệt, Đại Giới đàn Huệ Thành năm 2001, Thầy được mời làm Tuyên Luật sư, Khai đạo Giới tử.

– Giáo thọ A – xà – lê Đại Giới đàn Nguyên Thiều – Siêu Bạch năm 2013.

– Giáo thọ A – xà – lê Đại Giới đàn Minh Vật – Nhất Tri, Đại Giới đàn Thiện Khải năm 2015.

4. TIẾP TĂNG ĐỘ CHÚNG

Có lẽ nhờ đầy đủ túc duyên nhiều đời nên Thầy rất có duyên nuôi dạy đệ tử. Hiện tại, đệ tử xuất gia có hơn 100 vị. Trong đó, đại đa số đã trưởng thành và đang đóng góp Phật sự cho Giáo hội. Có gần 60 vị đi trụ trì và làm các Phật sự ở các nơi trong và ngoài nước. Thầy đã quy y và truyền giới cho hơn 10 ngàn Phật tử tại gia.

Ngoài ra, Thầy còn lập Đạo tràng Phước Viên tại Hải ngoại tại Mỹ quốc. Kêu gọi các Phật tử tại Hoa Kỳ đóng góp giúp đỡ cho 25 cơ sở gồm các trường Phật học và một số chùa tại Việt Nam, mỗi tháng trung bình 3.500 USD. Đồng thời tài trợ cho hơn 60 Tăng Ni sinh viên đang du học tại Ấn Độ, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Tích Lan, Nhật Bản. Trong đó có hơn 20 vị đã tốt nghiệp Tiến sĩ và Thạc sĩ.


5. GIÁO DỤC TĂNG NI

Thầy giữ chúc vụ Hiệu phó Học vụ đặc trách Tài chánh kiêm Trưởng ban xây dựng trường TCPH tỉnh Đồng Nai từ năm 1990 đến nay. Trải qua 7 khóa học đã đào tạo gần 1000 Tăng, Ni sinh Tốt nghiệp Trung cấp Phật học và hơn 300 vị đang theo học khóa VIII (2017 – 2020) tại bổn trường.


6. HOÀNG PHÁP

Với chức vụ Phó ban Trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh Đồng Nai, Thầy cùng Hòa thượng Thích Diệu Tâm, Phó ban Thường trực ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai và chư Tôn đức đến chứng minh, thuyết pháp cho các Phật tử tại các lễ Đặt đá, Khánh thành chùa, An vị tượng Phật, đúc Đại hồng chung, Đại trai đàn Chẩn tế, các khóa An cư, các Đạo tràng thọ Bát quan trai, các ngày trọng lễ của Phật giáo như Phật đản, Vu lan…, ở vùng sâu vùng xa như các huyện Xuyên Mộc (Đồng Nai cũ), Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc…nơi nào có nhu cầu Phật sự, Thầy đều đáp ứng và đóng góp một phần lớn cho việc Hoằng dương Phật pháp tại tỉnh nhà.


V. VIÊN TỊCH

Sinh thời, Thầy có chí nguyện chuyên tu thiền định. Khởi đầu là phát tâm nhập thất tịnh tu tại núi rừng Vạn Giã, Khánh Hòa vào năm 1972. Những năm về sau, dù bộn bề Phật sự nhưng Thầy vẫn an nhiên với pháp hành thiền và các pháp tu tương hỗ khác.

Trong phương châm giáo dục mà Thầy đã đề xuất, gồm Học lý – Quán chiếu – Tổ chức cũng phần nào biểu lộ chủ trương cân đối giữa pháp học và pháp hành. Thân mang bệnh duyên, sở tật thường đeo đẳng, nhưng nhờ tu tập tinh cần, Thầy đã vượt lên nỗi đau thân thể để chu toàn Phật sự.


Xuất xử tùy duyên, Thầy luôn nhu nhuyến trong tổ chức và điều hành Phật sự, lấy sự hài hòa, ổn định làm tiêu chí để hướng về. Thế nên, dù đệ tử có Bắc, Trung, Nam, dù Phật sự có khi rày khi khác, nhưng tâm của Thầy lúc nào cũng luôn dung dị, thong dong.

Những năm cuối đời, thân lâm trọng bệnh, nhưng Thầy vẫn canh cánh bên lòng sự nghiệp đào tạo Tăng tài với bản hoài kế vãng khai lai.

Cuộc đời của Thầy đúng như bài kệ của Đại sư Chánh Thống phó pháp cho Thầy:

Nguyên Minh minh phẩm chiếu

Quang Đạo đạo thường bằng

Thỉ chung niệm vô niệm

Phật quả tự nhiên thành.

Đời Thầy bát ngát hương thiền, ứng cơ vô ngại. Thân thường bịnh, chí kiên trung. Tướng uy dũng, tâm tràn đầy từ ái. Nhìn thế giới như không hoa, nhân sinh như mộng huyễn. Sắc không đồng nhất thể, quán thể nhaaph Pháp giới tánh làm tiêu hướng tu hành.

Mùa Thu năm Đinh Dậu, vào lúc 16 giờ 15 phút, ngày 16 tháng 7 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 06 tháng 9 năm 2017), Thầy đã an tường xã bỏ báo thân, thọ 77 tuổi đời, 52 tuổi đạo.

Nam mô tự lâm tế chánh tông, tứ thập tứ thế, Liễu Quán pháp phái, Phước Viên đường thượng, húy thượng NGUYÊN hạ MINH, tự QUANG ĐẠO, hiệu CHIẾU NHIÊN Hòa thượng Giác linh.

Môn đồ pháp quyến
Phụng soạn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2010(Xem: 11163)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 6004)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 5545)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 7699)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 6431)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 9234)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 7544)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 14142)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 9740)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]