Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Giác Quang (1947-2023), Tông Trưởng Tông Phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng

07/05/202309:31(Xem: 2267)
Tiểu Sử Hòa Thượng Giác Quang (1947-2023), Tông Trưởng Tông Phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng


ht thich giac quang-1947-2023

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG thượng GIÁC hạ QUANG

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH GHPGVN.
CHỨNG MINH BTS GHPGVN TỈNH ĐỒNG NAI
TÔNG TRƯỞNG TÔNG PHONG LIÊN TÔNG TỊNH ĐỘ NON BỒNG
(1947-2023)

I. THÂN THẾ

Hòa thượng Giác Quang – thế danh là Đàm Hữu Phước, sinh ngày 30/4/1947 (nhằm ngày 10/3 âm lịch, năm Đinh Hợi) tại ấp Mỹ Thạnh, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Hòa thượng sinh ra trong một gia đình đạo đức gia phong, thân phụ là cụ ông Đàm Hữu Lượng – một y sĩ đức độ nhân từ, thân mẫu là cụ bà Võ Thư Tư – một nhà giáo lương hiền phúc hậu, được dân làng trân trọng và kính quý.
Năm 1958, Ngài được bà nội hướng dẫn quy y với Hòa thượng Thích Quảng Đức, vị Bồ tát “vị pháp thiêu thân” và được đặt pháp danh là Nhuận Đức.
Mùa Xuân năm 1959, Hòa thượng khi ấy 12 tuổi, được thân phụ dẫn về núi Dinh – Bà Rịa Vũng Tàu để đảnh lễ đức Tôn sư là Hòa thượng Thiện Phước tức là Đức Mẫu Trầu Bồng Lai. Sau khi được gặp Tổ sư khai đạo, Hòa thượng bắt đầu nuôi chí xuất trần khi tuổi còn niên thiếu.

II. XUẤT GIA HỌC ĐẠO
Đầu năm 1960, Ngài tìm về Tổ đình Linh Sơn (huyện Tân Thành, Bà Rịa-Vũng Tàu) để cầu xin xuất gia với Đức tôn sư – Hoà thượng Thiện Phước, Ngài được đặt pháp danh là Giác Quang và chính thức tu học tại Phật Học Đường Tây Phương Bồng Đảo – Núi Dinh.
Năm 1964, Hòa thượng thọ giới Sa di tại Trường Sanh Phật tự, xã Điều Hòa, thị xã Mỹ Tho, do Hòa Thượng Thích Từ Ân chứng truyền. Tuy ấu niên xuất gia nhưng rất nhiều lần Hoà thượng được Đức tôn sư Thiện Phước cho phép vào mật thất nơi thâm sơn cùng cốc trên núi Dinh, có khi lại cho về nhập thất tại Đạo Tràng Huệ Tâm, Lái Thiêu.

Năm 1965, duyên lành hội đủ, Hòa thượng được diện kiến Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức tại Am Bửu Quang Minh, Sân Tiên, núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn) thuộc Thất sơn, tỉnh An Giang. Nhận thấy căn cơ thông tuệ của Hòa Thượng, nên Sư Ông Bửu Đức đã trao truyền mật pháp tu hành.
Dù đã xuất gia nhưng với chí cầu học, Hòa thượng đã tiếp tục đèn sách tại trường Trung học Châu Thành – Phường Phước Hiệp, Bà Rịa Vũng Tàu. Vào năm 1965, Ngài đậu tú tài phần II tại Trường Trung học Hùng Vương, Sài Gòn.

Năm 1966, Ngài thọ Cụ túc giới tại Trụ sở Trung ương Phật giáo Tịnh Độ tông Việt Nam – Sài Gòn do đại lão Hòa thượng Thích Hồng Ảnh chứng truyền. Và kể từ năm đó, Hòa thượng Giác Quang bắt đầu vân du khắp nơi giảng pháp khuyến thiện, khuyên người tin nhân quả, trường chay niệm Phật. Một số ngôi chùa vẫn còn lưu dấu ấn bước chân hoằng pháp của Ngài như chùa Như Lai – ngã tư Trung Chánh, Sài Gòn; đặc biệt là tại tỉnh Lâm Đồng, Ngài từng đến hóa đạo ở Trại Mát, Trại Hầm, Chi Lăng, Thái Phiên – Đà Lạt. Ngài cũng về thuyết giáo ở quê hương Chợ Gạo, Mỹ Tho, Tiền Giang và nhiều vùng lân cận thuộc miền Tây Nam Bộ. Vừa giáo hóa chúng sanh, Hòa thượng vừa gánh vác trọng trách Phật sự Tông phong do Đức Tôn Sư Thiện Phước giao phó.

III. TRÁCH NHIỆM VỚI TÔNG PHONG

Từ khi Hòa thượng chính thức là một vị Tăng sĩ tu tại Phật học đường Tây Phương Bồng Đảo, Ngài đã thể hiện nhân cách một vị xuất sĩ đức hạnh, tinh tấn, mẫn cán và thông minh. Do vậy, Hòa thượng đã sớm trở thành một trong những hạt nhân nòng cốt của Liên tông Tịnh độ Non Bồng.
Năm 1967, Hoà thượng cùng chư Tôn đức Trưởng lão môn phong tổ chức Đại hội lần I, kỷ niệm 10 năm thành lập Liên tông Tịnh độ Non bồng (1957 – 1967).

Năm 1970, Hòa thượng được suy cử là Trưởng ban Giáo dục Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng. Sau khi đất nước thống nhất, từ tháng 8 năm 1975, Hòa thượng đảm đương trách nhiệm giảng dạy giới luật cho chư Tăng của tông phong, cùng với đức Thầy Huệ Giác giảng Kinh và thuyết pháp giáo hóa Phật tử. Ngài cũng là Tổng Thư ký Quan Âm tu viện và Thư ký Cô nhi viện Phước Lộc Thọ. (Tháng 10/1978, Cô nhi viện giải thể theo chính sách chung của nhà nước).
Từ năm 1984, Hòa thượng cùng Tăng Ni Quan Âm tu viện theo chân Đức Tôn Sư Hoà thượng Thiện Phước cùng Đức Thầy Huệ Giác là những bậc thầy tiên phong trong việc khai khẩn hàng trăm hecta đất hoang để trồng cây gây rừng nhằm bảo vệ môi trường sinh thái cho quê hương đất nước. Các khu rừng xanh của Tông phong ngày càng mở rộng tại các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Phước, Lâm Đồng….
Đức Tôn Sư Thiện Phước khi còn sinh tiền đã giao phó trách nhiệm Tông trưởng Tông phong cho Ni trưởng Huệ Giác nên ngay sau khi đức Tôn sư viên tịch (mùng 1 tháng 8 năm 1986), thì Hoà thượng Giác Quang đã phát nguyện y giáo phụng hành Đức Thầy Huệ Giác trong việc xây dựng và phát triển môn phong (với gần 200 tự viện và trên ngàn Tăng Ni). Đặc biệt là trách nhiệm gánh vác các Phật sự tại tổ đình Quan Âm tu viện.
Thành lập vào năm 1966, Quan Âm tu viện đã trải qua những thời kỳ rất hưng thịnh với 400 – 500 vị tu sĩ (cả Tăng và Ni) tu học. Do chiến tranh nên Trường Trung cấp Phật học Lâm Tỳ Ni tại tổ đình Linh Sơn – núi Dinh cũng dời về Quan Âm tu viện. Hòa thượng đã đảm trách cả việc hoằng pháp và giáo dục cho Tăng Ni và Phật tử tại Tu viện. Hơn nửa thế kỷ với trọng trách là Phó Trụ trì, đặc trách chư Tăng, phụ trách các chương trình tu học của đạo tràng Bát Quan Trai, Hòa thượng luôn chu toàn các Phật sự, xứng đáng với niềm tin của chư Tổ sáng lập tông phong Tịnh Độ Non Bồng.
Năm 2019, Ni trưởng Huệ Giác và Hội đồng Tông phong đã suy cử Hòa thượng làm Trụ trì tổ đình Quan Âm Tu Viện, sau đó đảm nhận vai trò Tông trưởng khi đức Thầy Huệ Giác viên tịch (năm 2020). Trong thời gian nhận lãnh trách nhiệm lớn lao, Hòa thượng đã thể hiện là bậc lãnh đạo tinh thần cao quý của môn phong, Ngài đã chỉ đạo trùng tu một số cơ sở tự viện của môn phong, xây dựng Tăng xá, Ni xá tại Quan Âm tu viện. Với tâm từ bi thương tưởng đến những vị Tăng Ni lớn tuổi, Hòa thượng xin phép mở phân viện Trường Trung cấp Phật học tại Quan Âm tu viện; Ngài duy trì và phát triển các khóa niệm Phật “bá nhựt trì danh” tại Nhứt Nguyên Bửu Tự. Y theo công hạnh của Đức Thầy Huệ Giác, Hòa thượng tiếp tục chỉ đạo Tăng chúng và phát triển việc trồng cây gây rừng – một truyền thống bảo vệ môi trường xanh của tông phong suốt bốn thập niên qua.
Dù lâm trọng bệnh trong những năm tháng cuối đời nhưng Ngài vẫn thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu một hệ phái. Sau những Phật sự của Giáo hội và tại Quan Âm tu viện, Hòa thượng vẫn thường về núi Dinh thăm nom giáo hóa Tăng chúng, chăm sóc hệ thống tự viện, am cốc tại tổ đình Linh Sơn I và II; toàn thể Tăng Ni trong Tông phong luôn đón nhận sự quan tâm và tình thương lớn của Hòa thượng qua công hạnh thực hành tứ nhiếp pháp của Ngài; bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Hòa thượng luôn dành thời gian giáo dạy, bảo ban tứ chúng như người Cha lành từ ái, như cội Bồ đề che mát chúng sanh.

Suốt những năm tháng hành đạo, Hòa thượng xứng đáng là bậc thạch trụ tòng lâm vững chắc với giới hạnh trang nghiêm, đức hy sinh cao cả. Ngài luôn là tấm gương sáng cho cả môn phong về lòng hiếu đạo, đức khiêm cung, hạnh từ bi, luôn tùy thuận và hy sinh quên mình cho đạo pháp và dân tộc.

IV. PHẬT SỰ GIÁO HỘI

1. Tại Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai:
Hòa thượng Giác Quang với tâm nguyện phụng sự đạo pháp không chỉ môn phong pháp phái mà luôn quan tâm chăm lo Phật sự tỉnh nhà từ khi chưa thành lập giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Năm 1982, khi Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai được thành lập, thì đức Phó Pháp chủ – Hòa thượng Thích Huệ Thành đã cho mời Hòa thượng Giác Quang chính thức tham gia Phật sự tỉnh Đồng Nai.
– Năm 1983, Hòa thượng là Thư ký Văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai. Các nhiệm kỳ thuộc khóa IV, khóa V, khóa VI Hòa thượng đã luân phiên làm Chánh văn phòng, Phó thư ký và Chánh thư ký Văn phòng BTS Tỉnh hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai.
– Nhiệm kỳ 2012 -2017 (Khóa VII): Phó ban Trị sự kiêm Chánh Thư ký BTS Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai.
– Nhiệm kỳ 2017-2022: (Khóa VIII): Phó ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai.

2. Phật sự tại Trung ương Giáo hội:
– Thành viên Hội đồng Trị sự GHPGVN khóa VII (nhiệm kỳ 2012-2017) và khóa VIII (nhiệm kỳ 2017-2022);
– Thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương GHPGVN khóa IX (nhiệm kỳ 2022-2027).
– Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương khóa VII (nhiệm kỳ 2007 – 2012), Ủy viên Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN khóa VI (nhiệm kỳ 2007 – 2012) và khóa VII (nhiệm kỳ 2012 – 2017).
– Ủy viên Thường trực Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN khóa VIII (nhiệm kỳ 2017-2022).

3. Tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai:
Thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai khóa VIII (nhiệm kỳ 2014-2019); khóa IX, (nhiệm kỳ 2019-2024); Thành viên Hội đồng Trung ương Tư vấn Tôn giáo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai khóa VIII nhiệm kỳ (2014-2019), khóa IX, nhiệm kỳ (2019-2024).

V. TÔN CHỨNG SƯ CÁC GIỚI ĐÀN, GIÁO THỌ SƯ TẠI CÁC HẠ TRƯỜNG TỈNH ĐỒNG NAI
Hòa thượng là Phó Thư ký Ban Tổ chức Giới đàn tại Bửu Phong Cổ tự (1980) và giới đàn Tổ đình Long Thiền (1982). Trong các đại Giới đàn do Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai tổ chức từ năm 1983, 1984, 1986, 1988, 1995, 1998, 2000, 2002, 2004, 2006 Hòa thượng được cung thỉnh là Giới sư Tôn chứng Tăng già và kiêm Ban Giám khảo.
Hòa thượng được cung thỉnh với tư cách là Giáo thọ A-xà-lê tại các đại Giới đàn Nguyên Thiều (2009), đại Giới đàn Nguyên Thiều – Siêu Bạch (2011), đại Giới đàn Minh Vật – Nhất Tri (2013), đại Giới đàn Thiện Khải (2015), đại Giới đàn Pháp Loa (2017), đại Giới đàn Diệu Tâm (2019) và đại Giới đàn Thiện Hoa (2022).
Hòa thượng là Thiền chủ hạ trường Quan Âm tu viện. Giáo thọ sư trường hạ tổ đình Long Thiền và các Hạ trường trong toàn tỉnh từ năm 1983 cho đến nay.

VI. SÁNG TÁC PHẬT GIÁO

Hòa thượng Giác Quang là một nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng nói riêng và Phật giáo Nam Bộ nói chung với trên 50 đầu sách. Các thể loại nghiên cứu và sáng tác rất phong phú và đa dạng như: Phật học, lịch sử, văn học… dưới các thể loại nghiên cứu, sáng tác thơ ca, văn chương, nhiều bài tham luận giá trị về quá trình hình thành và phát triển Phật giáo và Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng.

Đặc biệt, thơ ca của Ngài nhằm xiển dương pháp môn Tịnh độ, Thiền Tịnh song tu, gương sáng tiền nhân, pháp môn tu học thể hiện tinh hoa giải thoát. Điển hình như:

v Văn học:

– Trọn một niềm tin, NXB Văn Nghệ, 2009.
– Nguồn cội, NXB Phương Đông, 2011.
– Hoa viên đạo lý, NXB Văn hoá văn nghệ, 2015.
– Những năm tháng không quên, NXB Tổng hợp HCM, 2021.
– Hoa Sen bên núi xưa, Hoa Sen trong nắng mới, Hoa Sen vi diệu pháp, Còn mãi những Hoa Sen, Trọn một niềm tin, Thể hiện hạnh lành (2009).

v Phật học:
– Phật học đại cương, NXB Văn Nghệ, 2008.
– Phật giáo và Vấn đề Hộ quốc An dân, 2009.
– Phật Pháp Khí: Chuông, mõ, trống, 2009.
– Công hạnh niệm Phật, 2009.
– Đạo Phật và vấn đề Nhập thế, 1991(tái bản năm 2010).
– Tịnh độ giảng lược, NXB Phương Đông, 2010.
– Hành hương về nguồn, NXB Văn Hóa Văn Nghệ, 2011.
– Một trăm ngày niệm Phật và một trăm bài pháp, NXB Phương Đông, 2011.
– Phật pháp vấn đáp 5 tập, NXB Phương Đông, 2013 – 2018.
– Pháp giáo Liên tông Tịnh độ Non bồng, NXB Hồng Đức, 2021.
– Tổ chức Phật giáo Việt Nam (giáo trình giảng tại Trường TCPH tỉnh Đồng Nai, 1990).

v Lịch sử:
– Tiểu sử Sư Cụ Thích Hồng Tại (Đoàn Trung Còn) – nguyên Hội Trưởng Trung ương Tịnh Độ Tông Việt Nam,1989.
– Tưởng niệm 55 năm Đức Giáo Tổ Minh Đăng Quang vắng bóng, Khảo luận, 2009.
– Lược sử Quan Âm Tu Viện, 2009 (tái bản lần thứ nhất 2010).
– Lịch sử Tổ đình Quốc Ân Kim Cang (ngôi chùa có trên 300 năm ở vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai).

v Các tác phẩm về Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng:
– Pháp Giáo Tịnh Độ Non Bồng, 2019, NXB Hồng Đức.
– Quan Âm tu viện và Ý nghĩa Xá Lợi, NXB Văn Hoá Văn Nghệ, 2018.
– Nghi Thức Tụng Niệm trong Liên Tông, 1991.
– Khóa Tu Bá Nhựt Trì Danh, 2008.
– Lễ sám thù ân của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, 1992.
– Hoà thượng Thiện Phước Toàn Tập, NXB Hồng Đức, 2020.
– Con Thuyền thanh lương, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 2020.
– Kỷ yếu Tưởng niệm Ni trưởng Huệ Giác, NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022.

VII. HẠNH LÀNH ĐỨC SÁNG TỎA KHẮP NHÂN GIAN

v Tâm Hạnh Từ Bi

Mang hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, Hòa thượng được chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử thương kính, trọng ân do lòng từ bi như biển hồ lai láng. Bất cứ ai từng được gặp ngài đều có ấn tượng khó phai về tâm đức, trí đức và tuệ đức của một bậc xuất trần thượng sĩ. Là bậc Cao Tăng đạo cao, đức trọng, lời nói và việc làm luôn mát mẻ thanh lương như nước cam lồ trong bình tịnh thủy. Toàn thể Tăng Ni trong hệ phái hiếm khi thấy được Ngài nóng giận hay lớn tiếng với bất kỳ ai. Ngay cả khi đứng trước những điều trái ý nghịch lòng, Ngài vẫn từ ái khoan dung, nhân từ và độ lượng. Tuy Phật sự đa đoan nhưng có dịp là Ngài lại đi thăm các tịnh viện và các am sơn cùng cốc (gần 200 cơ sở của môn phong). Với công hạnh cứu khổ và ban vui nên đi đến đâu Ngài cũng ban tặng Kinh sách, vật phẩm, tịnh tài, tịnh vật… Do vậy mà chư Tăng Ni môn phong đều trân quý, kính thương Ngài. Đối với Tăng Ni hậu học trong ngoài tỉnh, khi gặp Hòa thượng đều được Ngài ân cần lắng nghe, bảo ban giúp đỡ. Với hàng Phật tử Ngài cũng luôn hoan hỷ từ bi giáo hóa không phân biệt.

Trong việc tiếp nhân xử thế của Hòa thượng đã lưu lại rất nhiều câu chuyện cảm động Nhiều Tăng Ni và Phật tử ở nhiều huyện thị trong tỉnh Đồng Nai đã kể về “Sư ông Giác Quang – một tấm gương thi ân bất cầu báo” với niềm kính thương và ân trọng. Với tánh hạnh khiêm cung, giản dị, chân thành, hạnh từ bi giúp đỡ Tăng Ni, sẵn lòng hỗ trợ chùa am tịnh thất… Với công hạnh lợi tha, tận tụy phụng sự cho tông phong, sẵn lòng cống hiến cho đạo pháp và dân tộc. Hòa thượng quả là tấm gương sáng ngời của một vị chân sư phạm hạnh hiếm có trên thế gian.

v Nếp sống khiêm cung và giản dị

Là bậc lãnh đạo môn phong, bậc tòng lâm thạch trụ của Giáo hội, Hòa thượng luôn miên mật, khắc kỷ tu hành với nếp sống giản dị thanh cao. Nhiều năm trường làm việc Giáo hội, giữ phạm hạnh nghiêm minh. Ai cần gì thì Sư ông lại ban phát hết. Rồi khi trở về thiền thất đơn sơ thì Hòa thượng lại xem kinh đọc sách, đánh máy thâu đêm. Giờ Tý canh ba lại công phu tọa thiền niệm Phật. Quả là:
“Bậc thiền giả làu thông pháp tướng,

Vị bác lãm nổi tiếng hạnh khiêm cung,

Oai nghi đĩnh đạc vô cùng,

Thế sự thung dung chẳng bận.”
Hòa thượng suốt bốn mươi năm phụng sự Phật pháp thì từng ấy thời gian không quản ngại bất cứ Phật sự gì dù nơi xa xôi hay vùng hẻo lánh, khi khỏe mạnh, lúc ốm đau. Dù ở bất cứ nơi đâu, Ngài cũng luôn nhẹ nhàng khoan thai đến tận nơi, với năng lượng từ hòa, hoan hỷ giúp muôn người hạnh phúc an vui. Hòa thượng từng nói: “Sư nguyện hành theo hạnh nguyện của Đức Tôn Sư, dù khó dù khổ cũng không ngại không sờn”.
“Bóng từ bi xủ mày theo năm tháng,
Báo thân gầy không ngại nắng mưa sa,
Như dòng suối biếc reo ngàn hạnh nguyện,
Khổ hạnh thân tích sử cõi ta bà.” (1972)

v Tấm Gương Phạm Hạnh

Từ thuở ấu niên theo chân Đức Tôn Sư tu hành, Ngài đã sớm tỏ rõ sự cần mẫn, khiêm cung, chuyên cần và nhẫn nại. Đối với Tổ Thầy, Ngài một lòng hiếu đạo, kính trọng phụng hành, luôn giữ vững tông chỉ của Tôn sư. Từ thuở mới xuất gia, căn cơ tỏ ngộ, Ngài đã nhiều lần nhập thất chuyên tu, ngày ăn một bữa, ngủ ngồi không nằm suốt 3 năm để lễ bái trì Pháp Hoa kinh. Nhiều năm trường Hòa thượng luôn giữ thanh bần khổ hạnh chốn non cao, ẩn dật tu hành nơi rừng sâu núi thẳm, Ngài kiên trì theo đức Tôn sư trong các công trình khai sơn, tạo tự, hoằng Phật đạo chẳng từ lao nhọc. Cả cuộc đời miên mật tu hành. Khi phải gánh vác rất nhiều Phật sự, Ngài vẫn chuyên tâm mỗi sáng lạy thù ân, thành kính chuyên cần trọn phần báo đức. Hằng đêm ngồi niệm Phật, tinh tấn miên mật rõ chuyện tử sinh. Ngài đã hành trì thời khóa công phu như thế từ thuở ấu niên cho đến khi tuổi cao sức yếu vẫn không một ngày xao lãng. Đối với các công việc của Giáo hội, Ngài luôn xem đó là trách nhiệm phụng sự đạo pháp và dân tộc trong hạnh nguyện của vị Sứ giả Như Lai.

“Hiến thân cho chúng sanh chung,

Chỉ có Bồ Tát đại hùng lợi tha

Tấm thân tứ đại ta bà,

Việc làm đại nghĩa Phật đà chứng minh.”
(“Lợi tha” – Thi kệ Người con Phật diễn ca – HT.Thích Giác Quang).


VIII. KHEN THƯỞNG
Là vị Cao Tăng, đức cao, đạo hạnh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng lão Hòa thượng luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp, vô ngã, vị tha; thực hành tốt giáo lý Lục hòa của Phật giáo; nêu cao đạo hạnh, nghiêm trì giới luật và tuân thủ pháp luật.
Trọn cuộc đời tu học, hành đạo, giúp đời, Trưởng lão Hòa thượng đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến xuất sắc cho “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”; được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam biểu dương và trân trọng trao tặng: Huy chương “Vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc”; Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp dân vận”; 16 Bằng khen của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai và rất nhiều Bằng khen của Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Đồng Nai cùng Bằng Tuyên dương Công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trung ương GHPGVN và Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai.

IX. THỜI KỲ VIÊN TỊCH
Với tình thương bao la đại đồng, bước chân Người phổ hóa chúng sanh, cho đời tươi đẹp, cho ánh đạo vàng của Như Lai tỏa rạng ánh chơn như. Dù tuổi cao sức yếu, Ngài vẫn bất từ lao quyện chu toàn Phật sự của Tông phong và Giáo hội. Những năm tháng cuối đời Hòa thượng vẫn kiên trì sắp xếp, xây dựng tông môn pháp phái vững bền. Còn chút hơi thở nào thì Ngài vẫn tọa đạo tràng, thuyết pháp, giảng Kinh, Từ bi khó sánh, diệu dụng khôn lường.
Biết trước tấm thân hư huyễn rồi sẽ đến lúc trả về cho cát bụi, Ngài với tinh thần sáng suốt thư thái an nhiên chào huynh đệ và các hàng đệ tử, mỉm cười khẽ nói: “Bồ tát bất thối vi bạn lữ” rồi nhẹ bước vào cõi vô dư. Ngài thâu thần thị tịch vào lúc 23 giờ ngày 08 tháng 04 năm 2023 (nhằm ngày 18 tháng 02 nhuần năm Quý Mão) tại Quan Âm Tu Viện, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Hòa thượng Thích Giác Quang mãn báo thân 77 tuổi đời, 57 tuổi đạo.

“Viên mãn báo thân của bậc chân nhân hiện thân trong cõi thế,
Rạng danh bậc Thích Tử mô phạm chốn hồng trần.
Quan Âm Tu Viện một sớm tịnh thất lặng im,
Mãi còn đó dáng Thầy qua năm tháng…
Tịnh Độ Non Bồng ngàn thu rừng thiền trống vắng,
Vẫn đâu đây lời Pháp vọng vang hoài.

Chúng Đệ Tử Tông Phong Tịnh Độ Non Bồng Cẩn Chí


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8736)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20425)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6247)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8630)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5712)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19261)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9591)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6075)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6863)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6337)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]