Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)

19/04/202305:22(Xem: 2551)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)

ht thich tri thu

LƯỢC SỬ

HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ
(1909-1984)




Hòa Thượng húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Trí Thủ. Hòa Thượng sinh giờ Hợi ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một dòng tộc nối đời sùng mộ Phật pháp. Hòa Thượng thuộc thế hệ thứ tám của họ Nguyễn, họ khai canh và khai khẩn làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dòng tộc này từ thế hệ thứ ba có Thiền Sư Đạo Minh – Phổ Tịnh trụ trì kế tổ Tổ đình Báo Quốc – Huế, kiến lập Sắc Tứ Linh Quang Tự tại thôn nhà (làng Trung Kiên, Triệu Phong, Quảng Trị) vào năm Gia Long nguyên niên (1802). Đời thứ tư có Hòa Thượng Nhất Định – Tánh Thiên khai sơn Tổ đình Từ Hiếu. Thế hệ thứ sáu Hòa Thượng Trừng Nhã, tự Chí Thanh khai sơn chùa Giác Lâm. Thế hệ thứ bảy Hòa Thượng Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ khai sơn chùa Hải Đức. Đồng hàng thứ tám có Hòa Thượng Tâm Lượng, hiệu Diệu Hoằng trùng hưng Diệu Đế quốc tự.

Thân phụ ngài húy Văn Minh, pháp danh Trừng Khiết, tự Diệu Quang, hiệu Hưng Nghĩa. Thừa tiếp gia phong, theo hạnh tu bán thế tục gia, lập am thất Phổ Tế tại vùng đồi phía Nam kinh thành Huế, quy ngưỡng Phật pháp. Thân mẫu tục danh Lê Thị Nậy, tự Chiểu, người làng Cu Hoan, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài là con trai trưởng, gia đình có hai em, một trai là Nguyễn Văn Khâm và một gái là Nguyễn Thị Vân.

Từ tấm bé, ngài đã theo đòi nghiên bút với Hán tự, chữ viết văn học thời này. Lên chín là khá làu thông việc đọc và viết các bài kinh nhật tụng. Ảnh hưởng đạo phong của các bậc tôn túc thân tộc, vốn ươm sẵn cốt tủy bồ đề và túc duyên với Phật pháp, mười bốn tuổi ngài theo bác ruột học kinh ở chùa Hải Đức – Huế. Dòng tộc vốn kính ngưỡng cao danh và đạo vị của Thiền Sư Viên Thành nên năm mười bảy tuổi ngài được cho đầu sư thọ học với Thiền Sư tại chùa Tra Am (Trà Am), Huế. Ngài được Bổn Sư Viên Thành nhận làm đệ tử thứ tư, ban pháp danh Tâm Như, pháp tự Đạo Giám và giáo huấn nghiêm ngặt. Ba đại sư huynh ngộ pháp nổi danh của ngài là Trí Uyên, Trí Hiển và Trí Giải.

Đủ hai mươi tuổi, Bổn Sư cho vào giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng thọ Cụ Túc giới, Hòa Thượng trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 Giới Tử tại giới đàn này. Do đó, Bổn Sư Viên Thành đã cho pháp hiệu là Thích Trí Thủ với ý khen tặng chữ Thủ là đứng đầu.

Sau hai năm cư tang Bổn Sư tại chùa Tra Am, ngài cùng các pháp lữ vào chùa Thập Tháp, Bình Định tham học với Hòa Thượng Phước Huệ vào năm 23 tuổi.

Mãn học, ngài ngồi ghế Giáo Thọ, dạy trường Phật Học Phổ Thiên ở Đà nẵng. Vì chưa thỏa lòng cầu pháp, ngài trở ra Huế, cùng các vị đồng học ở Thập Tháp ngày trước, tổ chức Trường Phật Học tại chùa Tây Thiên, cung thỉnh Tăng Cang Giác Nhiên chùa Thiền Tôn làm Giám Đốc, Hòa Thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp làm Đốc Giáo dạy nội điển, đồng thời mời các Cư Sĩ như bác sĩ Lê Đình Thám dạy luận học, các cụ Nguyễn Khoa Toàn, Cao Xuân Huy… dạy các môn về văn hóa theo trình độ đại học. Ở trường này, ngài đã chính thức học chương trình đại học Phật Giáo cũng như văn hóa. Trong thời gian này, ngài đồng thời làm Giảng Sư cho Hội Phật Học Huế và dạy lớp trung đẳng Phật học cũng mở tại chùa Tây Thiên. Lúc này, ngài được hai mươi bảy tuổi. Khi Hội Phật Học mở trường tiểu học Phật Giáo tại chùa Báo Quốc, ngài đã kiêm dạy chúng Tăng Sinh ở đây.

Sau khi tốt nghiệp Trường Phật Học Tây Thiên, năm 29 tuổi (1938), ngài về trụ trì chùa tổ Ba La Mật, nhưng vẫn tiếp tục công việc giảng dạy cho Hội và các trường Phật học. Năm 1939, Ni Trường thành lập tại chùa Từ Đàm, Sơn Môn và Hội Phật Học giao ngài đặc trách việc đào tạo và điều hành Ni Trường này. Đây là cơ sở Ni Bộ đầu tiên được hình thành. Năm 1940, ngài trùng tu chùa tổ Ba La Mật. Năm 1941 mở Trường Sơn Môn Phật Học tại chùa Linh Quang Huế, chủ trương xây dựng kinh tế tự túc cho học chúng làm phương tiện tu trì trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng thời bấy giờ. Ngài cũng chủ trương cho Học Tăng học văn hóa. Chính ngài đích thân dẫn Tăng Sinh đi thi tiểu học. Việc Tăng Sinh học văn hóa và thi lấy bằng cấp ngoài đời đã gây chấn động không ít trong số người chủ trương đào tạo Tăng Sinh theo nề nếp cũ.

Cách mạng tháng 8 dấy khởi, với cương vị Trị Sự Sơn Môn Thừa Thiên, ngài đã cùng nhiều vị lập Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, chủ trương tờ nguyệt san Giải Thoát làm cơ quan tuyên truyền. Ngài đắc cử Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân Thừa Thiên và được chính quyền mời đến Trung Bộ Phủ giao quyền sắp đặt lại chùa chiền, hủy bỏ chế độ chùa vua trước đó.

Năm 1948, ngài mở giới đàn tại chùa Báo Quốc, thân làm chủ đàn. Tại giới đàn này, ngài đã phục hồi ý nghĩa của Thất Chứng mà các giới trường xưa nay ít coi trọng. Trong ý nghĩa đó, ngài đã cung thỉnh các vị tôn túc giới đức cao dày làm Tôn Chứng để chứng minh cho sự truyền giới. Ngài cũng phân chia riêng Tăng, Ni hai bộ, Tăng độ cho Tăng, Ni độ cho Ni.

Năm 1951, với chức vụ Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học Trung Phần, nằm trong hệ thống Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam có sáu tập đoàn Phật Giáo Bắc, Trung, Nam, đứng đầu là Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ, ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trường Tiểu Học Tư Thục Bồ Đề tại thành nội Huế. Đây là điểm mở đầu mạng lưới giáo dục Phật Giáo, đóng góp vào sự nghiệp hoạt động xã hội nhân sinh, xây dựng đất nước theo tinh thần nhập thế vốn có ở đạo Phật tự ngàn xưa. Mạng lưới giáo dục này từ đó liên tục phát triển với nhiều tỉnh thành khắp nước, ở cả ba cấp học. Đến năm 1975, đất nước hòa bình, mạng lưới lại hoàn toàn bị giải thể.

Năm 1952, ngài tạm nghỉ việc Hội, chuyên tâm giáo dục Học Tăng tại Phật Học Đường Báo Quốc. Cuối năm 1956, Phật Học Viện Trung Phần thành lập tại Nha Trang, ngài thân làm Giám Viện. Năm 1957, thấy đa số Tăng Ni của Phật Học Viện đã đến tuổi thọ giới, ngài cho mở giới đàn và thân làm đàn chủ.

Để ổn định kinh tế tự túc ở Phật Học Viện, ngài cho một số Tăng theo học cách thức chế biến và mở hãng sản xuất xì dầu (nước tương), hương đèn, dấm ăn, xà phòng, sử dụng sức lao động của nội chúng và Phật Tử chưa có việc làm gần chùa. Hầu hết Học Tăng của Phật Học Viện đều được ngài cho học cả hai chương trình nội điển và thế tục. Nhờ hướng đào tạo đó mà nơi đây đã là nguồn cung cấp liên tiếp những Chánh Đại Diện Giáo Hội các tỉnh, quận, hoặc giảng sư, trụ trì, hiệu trưởng, giám học các trường Bồ Đề, quản lý nhà in, nhà phát hành kinh sách… khắp miền Trung. Về sau, một số đã trở thành giảng sư, giáo sư đại học trong ngành văn hóa giáo dục phục vụ đạo và đời.

Năm 1960, ngài tạo mãi miếng vườn ở quận Gò Vấp, Sài Gòn, khai kiến tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1962, ngài dẫn đầu phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tại miền Nam tham dự đại lễ thế giới kỷ niệm năm 2500 đức Phật nhập Niết Bàn, tại vương quốc Lào.

Phật Đản năm 1963 khởi đầu thời pháp nạn, ngài về Huế cùng các vị lãnh đạo Phật Giáo hướng dẫn phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp và dân tộc cho đến khi bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam giữ. Ngày 1.11.1963, chế độ bạo quyền sụp đổ. Qua cơn pháp nạn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, được thành lập với 11 tập đoàn các hệ phái Phật Giáo toàn miền Nam và miền Bắc Việt Nam di cư, ngài được bổ nhiệm vào Ban Dự Thảo Hiến Chương Giáo Hội. Trong nhiệm kỳ đầu, ngài đảm nhiệm Tổng Vụ Hoằng Pháp. Công việc hoằng pháp và giáo dục Tăng Ni là mối quan tâm hàng đầu của ngài. Ở nhiệm vụ và vai trò này, ngài đã mở ba Đại Hội Hoằng Pháp: một tại Phật Học Viện Nha Trang, một tại chùa Xá Lợi, Sài gòn và một tại chùa Ấn Quang, (Chợ Lớn). Hoạt động và thành tích hoằng pháp đều tổng kết ghi lại trong ba tập kỷ yếu Đại Hội. Ngài còn thành lập Giảng Sư Đoàn và cắt cử mỗi vị phụ trách một tỉnh để diễn giảng Phật pháp cho tín đồ. Về sau, ngài còn thành lập Phật Học Viện Phổ Đà ở Đà Nẵng.

Năm 1964, ngài thân làm Viện Trưởng Viện Cao Đẳng Phật Giáo thành lập tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Đây là tiền thân của Viện Đại Học Vạn Hạnh. Ngài còn chủ trương các tập san Tin Phật, Bát Nhã để gióng tiếng pháp cho đời. Năm 1965, sau khi ổn định mọi Phật sự, ngài hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan, giao thiệp với nhiều danh tăng các nước.

Sau thời làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, ngài lại được Giáo Hội trao giữ nhiệm vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài chánh. Năm 1968, ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chính thức cử hành lễ tấn phong Hòa Thượng. Cùng năm này, Hòa Thượng khai giới đàn tại Phật Học Viện Nha Trang. Năm 1969, ngài đại trùng tu Tổ đình Báo Quốc.

Từ Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 5 và 6, Hòa Thượng giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đến năm 1975 kiêm Phụ Tá Đức Tăng Thống cho đến khi đất nước và đạo pháp chuyển qua giai đoạn lịch sử mới.

Năm 1976, Hòa Thượng lại tổ chức đại giới đàn Quảng Đức tại Tổ đình Ấn Quang, Chợ Lớn.

Trước chiều hướng mới và cũng thể theo ý hướng thống nhất mà xưa nay Phật Giáo Việt Nam vẫn thường ấp ủ. Sau hòa bình, trong cương vị Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng đã liên lạc chư tôn túc lãnh đạo các hệ phái và các tổ chức Phật Giáo khác trong cả nước, bàn bạc việc thống nhất Phật Giáo Việt Nam. Chính đây là nguyện vọng chung của toàn thể Tăng Ni và Phật Tử. Nguyện vọng này đã thể hiện cụ thể tại Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 7 họp tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, ngày 23.1.1977 gồm 160 đại biểu của 54 đơn vị trong Giáo Hội mà Hòa Thượng nhân danh Viện Trưởng tân nhiệm đã ký thông bạch 7 điểm trong đó có điểm thứ sáu nguyên văn như sau: “Đại Hội cẩn ủy Giáo Hội Trung Ương tiếp tục vận động thống nhất Phật Giáo cả nước trong tinh thần đạo pháp và truyền thống dân tộc”.

Sau khi Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo thành hình, Hòa Thượng được bầu làm Trưởng Ban Vận Động và khi Hội Nghị Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa Thượng đắc cử Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên.

Những năm cuối của báo thân, tuy tuổi già sức yếu, Hòa Thượng vẫn không xao lãng việc đạo, việc đời. Năm 1979 và 1982, dẫn đầu đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự Đại Hội thứ 5 và thứ 6 của tổ chức Phật Giáo Châu Á Vì Hòa Bình tại Mông Cổ. Năm 1980 làm trưởng đoàn đại biểu tôn giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân tổ chức tại Nhật Bản. Năm 1981 làm trưởng đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Liên Xô, cũng năm này kiến tạo thêm chánh điện tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1983 dự hội nghị các vị đứng đầu Phật Giáo năm nước Châu Á, tổ chức tại Lào.

Dù bận rộn Phật sự suốt con đường hành đạo, Hòa Thượng vẫn dành thì giờ phiên dịch kinh, biên soạn sách để hoằng dương giáo hóa. Các tác phẩm chính gồm:

-Kinh Phổ Môn;
-Kinh Phổ Hiền;
-Mẹ Hiền Quán Âm;
-Kinh Vô Thường;
-Kinh A Di Đà;
-Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo;
-Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng;
-Kinh Bất Tăng Bất Giảm,
-Pháp Môn Tịnh Độ;
-Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa;
-Luật Tỳ kheo;
-Luật Bồ Tát;
-Luật Tứ Phần;
-Luận Khuyến Phát Bồ Đề Tâm;
-Nghi Thức Truyền Giới Bồ Tát Tại Gia và Thập Thiện;
-Nghi Thức Phật Đản;
-Nghi Thức Lễ Sám Buổi Khuya và các tác phẩm khác đã in hoặc chưa in.
 

Thâm hiểu và cảm thông nghiệp lực nhân sinh, lân mẫn chúng Tăng Ni không giữ trọn nguyện ước thanh quy giới luật phải hoàn tục sống đời thế gia, Hòa Thượng lập Chúng Dược Vương để quy tụ và sinh hoạt với số đông Phật Tử vốn đã có thời gian ươm mầm hộ trì chánh pháp này.

Mãn báo thân 76 tuổi đời, 56 hạ lạp. Vào lúc 21 giờ 30 ngày 2 tháng 4 năm 1984 (nhằm ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) Hòa Thượng thị tịch tại Quảng Hương Già Lam, quàn tháp tại đây chờ di quan phụng Tổ tại tổ đình Báo Quốc theo nguyện ước lúc sinh tiền.


Trình bày và nhuận sắc từ TÂM NHƯ TRÍ THỦ






HT_Tri_Thu_6
KHƠI MỞ LỐI VỀ TÂM SỰ
VƠI ĐẦY NHỚ KẺ TRỒNG CÂY


Thời gian trôi nhanh, thật như bóng câu qua cửa sổ! Mới hôm nào Hòa thượng Thích Trí Thủ tiễn chân tôi ra sân bay đi Hà Nội để lo việc giảng dạy tại Trường Cao Cấp Phật học Cơ sở I tại chùa Quán Sứ, mà bây giờ đã gần đến ngay giỗ đầu của Hòa thượng.

Những ba năm, mỗi trang lịch dần dần đi vào dĩ vãng, nhưng lại vương đọng trong lòng nỗi ngậm ngùi, tiếc thương về một bóng hình, một bóng hình in đậm vào tâm hồn tôi và chắc chắn cũng khắc sâu vào tâm hồn của Tăng Ni Phật tử, cho dù trước giờ phút giã biệt thân tứ đại, trở về cõi an nhiên tự tại, Hòa thượng đã không để lại một lời.

Tôi nhớ rõ và thực sự xúc động cái sáng sớm mồng 3 tháng 3 năm Giáp Tý ấy lúc tôi đang ở tại chùa Quán Sứ, bỗng nhận được tin Hòa thượng đã vĩnh viễn ra đi xa, và xa tất cả chúng ta.

Từ đó đến giờ vẫn trong hình ảnh “nhạn quá trường giang, ảnh trầm hàn thủy, nhạn vô lưu tích chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm. Nhưng thực ra, bóng nhạn vẫn chập chờn với dòng sông và dòng sông đang gợn sóng theo bóng nhạn. Cảnh sắc sắc không không, tháng ngày vẫn vơi đầy nhớ kẻ trồng cây.

Tuần qua, tôi lại nhận được thư của anh em ở các Phật học viện và pháp tử của Hòa thượng, ngỏ ý cùng nhau ghi lại một số tâm tình về Hòa thượng và đề nghị tôi cho lời mở đầu để gọi là chút truy niệm ngày giỗ đầu của Người đã khuất.

Thấy tinh thần của anh em tôi hết sức mừng, đây là điều đáng duy trì và phát huy. Tục ngữ ta có câu “ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Nhớ ơn và đền đáp công ơn đó cũng là quy luật đạo đức và đó cũng là hạnh nguyện lớn của hành giả, trên bước đường tu học.

Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là một trong muôn ngàn cách biểu lộ lòng biết ơn đối với những vị dày công đóng góp cho Đạo pháp, cho Dân tộc và ngay cả cho mỗi người chúng ta. Ta thường nghe: “ngôn ngữ đạo đoạn.” Lời sẽ hạn chế đạo, hình thức lắm khi cũng làm giảm thiểu ý nghĩa. Cảm quan ta, ngôn từ ta, sẽ lúng túng, vụng về trước tác phẩm của vạn vật, trước những công đức “hành vô hành hành”. Nhưng có điều tôi cũng đồng ý với anh em “bất ngôn , thùy tri kỷ chi”. Vì thế càng viết càng thấm, càng thấm càng cảm, càng cảm càng thương, mối giao cảm sẽ tỏa ngời ánh sáng, tương quan liên hệ mật thiết nước với nguồn, nguồn với nước, kẻ ăn trái, người trồng cây có thể tiệm cận nhau, gặp gỡ nhau trong không gian đích thực của dòng sinh diệt, diệt sinh vẫn chung về một nẻo.

Có điều đang làm tôi lo lắng, lễ giỗ đầu của Hòa thượng cũng đã gần kề, liệu chúng ta có thực hiện đuọc như ý nguyện? Dù sao những cánh chim nơi mọi phương trời vẫn nhớ về tổ ấm, ta đã, đang và sẽ mãi không quên một bóng hình đáng kính, đáng yêu.

Nhớ và tưởng niệm Hòa thượng trong niệm chân thành, với nén hương, với bình hoa đơn giản của nhà thiền dâng cúng Hòa thượng, ta mong ước như Hòa thượng từng ước mong: “sanh sanh dự Phật vi quyến thuộc , xứ xứ bồ đề kết thiện duyên”.

Ngàn xưa và ngàn sau trăng vẫn sáng, có câu “trăng lặn về non không trở lại”. Đường về xứ Phật vẫn tỏa ngát mùi sen. Xuất phát từ ý thức này , nơi cõi Lạc bang , Hòa thượng cũng nở nụ cười hoan hỷ chứng cho lòng thành của tất cả chúng ta.

NAM MÔ LẠC BANG GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.

Huế , ngày Rằm thàng giêng năm Đinh Mão

Cảm niệm ,

Pháp lữ : Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU





HT. Thich Tri Thu
Nhớ Thầy
Kính viếng cố Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ


THANH TỊNH

Cho dù Thầy đã đi xa
Quê hương xin giữ bao la bóng Thầy,
Sông Hương thấm mát bờ cây
Ba-la [1](1) rực chiếu áng mây tỏa hồng
Thầy ơi , Thầy có biết không ?
Đài sen lớn mãi giữ lòng nhân dân
Nhớ Thầy đã mở mùa xuân
Ngay trong mưa gió mùa đông tơi bời ,
Nhớ Thầy xưa cảnh chơi vơi
Gắn lòng đất nước với đời Từ bi
Nhớ thương Thầy đã ra đi
Rất xa mà lại sử thi rất gần
Sớm chiều còn vọng chuông ngân
Còn nghe tiếng nói vì dân của Thầy
12.11.1984

[1] Chùa Ba-la ở Huế , nơi Hòa thượng Thích Trí Thủ bước vào cuộc đời tu hành .




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/10/2018(Xem: 10026)
Sư Bà Húy thượng NGUYÊN hạ PHÚC tự DIỆU TỪ sinh ngày 8 tháng 3 năm 1943 (Quý Mùi) tại thôn Đa Phước xã Hoà Khánh, Quận Liên Chiểu TP Đà Nẵng Việt Nam. Trụ trì chùa Diệu Quang California, Hoa Kỳ, đã thuận thế vô thường, an nhiên thâu thần thị tịch lúc 10:00 PM thứ Bảy, ngày 20 tháng 10 năm 2018, nhằm ngày mùng 12 tháng 9 năm Mậu Tuật, thế thọ 76, hạ lạp 56.
21/10/2018(Xem: 16677)
Ngắm Hoa (thơ của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, cảm tác sáng ngày 09/10/2018 ), Ta với hoa ai già ai trẻ Nghĩ ra rồi cái lẽ như nhau Hoa có từ nghìn xưa, có mãi đến nghìn sau Ta sinh ra từ vô thỉ và còn sinh mãi mãi Tâm Bồ Tát không bao giờ sợ hãi
20/10/2018(Xem: 5254)
Không cần phải đếm thời gian thế mà ngày lại ngày trôi qua nhanh quá, tôi tự nhắc thầm thôi đừng ngủ nhiều nữa , 6 tiếng mỗi ngày là đủ rồi vì mai này sẽ có những ngày ngủ triền miên và không còn cơ hội để học hỏi. Khuya nay chợt giật mình thức giấc sớm hơn thường lệ, chợt nhớ ra là ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10) tuy nơi hải ngoại con cháu không còn ai nhớ tới ngày này, ngay cả một số người trung niên cùng lứa ......thôi thì mình tự pha cho mình một chén trà xanh và tự mình thưởng thức và nhớ về một thời quá khứ, để tìm lại những cái hay của những bậc danh nhân 3X , 4X hay 5, 6 X đã qua trong giới Tăng Ni hay trong giới văn học nghệ thuật mà mình vẫn xem như thần tượng cho đến bây giờ .
19/10/2018(Xem: 8808)
Lễ Tưởng Niệm Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy tại Chùa Huê Lâm, Fitchburg, Massachusetts, Hoa Kỳ
11/10/2018(Xem: 13225)
Tin Viên Tịch: Hòa Thượng Thích Minh Cảnh vừa viên tịch tại Sàigòn, Trang nhà Quảng Đức Chúng con vừa nhận được tin buồn: Hòa Thượng Thích Minh Cảnh, Bào đệ của cố HT Thích Huệ Hưng,Thành viên Ban Chứng minh và Giám đốc Trung tâm phiên dịch Hán Nôm Huệ Quang thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam vừa viên tịch, lúc 01 giờ 30 chiều nay, thứ năm, mùng 3 tháng 9 năm Mậu Tuất (11/10/2018) tại Tu viện Huệ Quang, Sàigòn.
09/10/2018(Xem: 5659)
Vào sáng ngày 07 tháng 10 năm 2018, tại thành phố San Jose, Ni sư Thích Nữ Nguyên Thiện cùng ni chúng tu viện Huyền Không đã tổ chức lễ húy nhật và tưởng niệm lần thứ 12 cố Trưởng lão Hòa thượng thượng Mãn hạ Giác, nguyên Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, nguyên Viện chủ chùa Việt Nam ở Los Angeles.
03/10/2018(Xem: 6427)
Người Thật Sự Đã Ra Đi, Thành kính tưởng niệm Lễ Tiểu Tưởng Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy, Hôm nay tôi thức dậy sớm hơn thường lệ, lướt nhẹ ngang qua Chánh Điện, vầng đèn hào quang nơi tượng Phật tỏa ánh sáng thanh tịnh, tôi thấy Phật mỉm cười, nụ cười thanh khiết bình yên như chưa từng biết cuộc đời nầy là nơi chốn của gió bão. Tâm tư tôi đậm lại những kỷ niệm đã qua. Bên bờ rêu xanh của ký ức, tôi nhớ là gần đến ngày tưởng niệm một năm của Ni Trưởng Như Thủy. Sư Chị Tâm Chánh, Sư Chị Như Bảo và huynh đệ học Ni chúng tôi tại Hoa Kỳ sẽ tổ chức lễ tưởng niệm một năm của Ni Trưởng Như Thủy tại Chùa Huê Lâm, Boston vào khóa tu học mùa Thu năm nay. Nghĩ đến tự nhiên lòng tôi lại quặn đau, như có một nguồn sống ngầm ray rứt, chớp nhoáng đã một năm đi qua, Người không còn nữa giữa cõi đời ác trược đầy nghiệp chướng nầy.
01/10/2018(Xem: 8591)
Thông Báo về Lễ Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Thiện Minh tại Chùa Bảo Vương, Hoà thượng Thích Thiện Minh (1921-1978), là một bậc Cao Tăng Thạc Đức, và có công gầy dựng và lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ngài có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại miền Nam Trung Phần và Tranh Đấu Phật Giáo năm 1963. Năm 1973, khi Hòa thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Ngài đảm nhiệm chức vụ quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Năm 1978 Ngài bị nhà nước Cộng Sản bắt giam rồi mất trong tù. Nay đến ngày húy nhật năm 2018, đúng 40 năm sau ngày vắng bóng của Cố Hòa Thượng, toàn thể Tăng Ni và Phật tử tại tiểu bang Victoria thành tâm thiết lễ tưởng niệm công đức của Ngài vào lúc 10.30am sáng Thứ Bảy 13/10/2018 tại Chánh Điện Chùa Bảo Vương, Victoria. Thành Tâm Cung thỉnh Chư Tôn Đức Tăng Ni & Trân trọng kính mời quý Đồng Hương Phật tử gần xa cùng về tham dự lễ. Địa điểm: Chùa Bảo Vương, 2A Mc Laughlin St, Ardeer, Vic 3032. Tel: 9266 1282 Thời gian: 10.30am ngày Thứ Bảy 1
27/09/2018(Xem: 13479)
Thông Báo về Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn Lần thứ 11
23/09/2018(Xem: 7870)
Chúng tôi hổ thẹn mang nặng thâm ân 2 bậc Thầy lớn, đã để lại trong đạo nghiệp mình nhiều dấu ấn giáo dưỡng thâm trọng, dù cho có nghìn đời cố gắng cũng chưa thể báo đáp hết:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]