Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Kalama (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:44(Xem: 1500)
Kinh Kalama (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)


kamala
KINH KALAMA

HT. Thích Thiện Châu giảng giải

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 

Giới thiệu:

 

          Kinh Kâlâma thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikâya, tập I, trang 188-193). Nội dung kinh nói lên tinh thần giác ngộ của đạo Phật. Muốn giác ngộ phải có trí tuệ. Trí tuệ là thành quả của sự nghe học (văn) suy nghĩ (tư) và thực nghiệm (tu). Vì thế, nếu nghe lầm và tin mê thì rất có hại. Trái lại, tiếp nhận ý kiến người khác một cách khách quan, quan sát sự vật một cách như thật là điều kiện cần thiết để phát triển trí tuệ.

          Ngoài ra phải biết để lựa chọn, nghĩa là biết từ bỏ và chấp nhận. Từ bỏ những điều bất thiện gây ra đau khổ vì chúng phát xuất từ động cơ tham sân si và thể hiện qua những hành động ngôn ngữ tổn hại như giết người, trộm cướp, tà hạnh dối trá và say sưa. Chấp nhận và thực hiện những điều thiện mang đến hạnh phúc vì chúng phát xuất từ động cơ không tham, không sân, không si và thể hiện qua những hành động ngôn ngữ ích lợi như tôn trọng sự sống, tài sản, hạnh phúc gia đình, sự thật và giữ gìn tâm trí sáng suốt. Đối với mọi người mọi vật thì nên sống đẹp rộng và theo tinh thần từ, bi, hỷ, xả.

          Như vậy, Kinh Kâlâma là kinh nêu cao tinh thần không mê tín, cuồng tín, giáo điều, mà sáng suốt chấp nhận và thực hiện những điều mang đến hạnh phúc an vui cho mình và người.

 

          Những người Kâlâma thăm hỏi Phật.

          Tôi nghe như vầy:

Một thời Thế Tôn, trong lúc du hành trong xứ Kosala với đại chúng Tỳ Kheo, đi vào một thành phố của những người Kâlâma tên là Kesaputta.

Những người Kâlâma ở Kesaputta nghe rằng Sa môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ giòng họ Thích Ca (Sâkya) đã đến Kesaputta. Tiếng tốt về Thế tôn  Gotama được truyền đi như vầy: "Thế tôn thật là bậc A-la-hán, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn." (1) Lành thay, nếu chúng ta được yến kiến một vị A-la-hán như vậy.

Rồi những người Kâlâma đi đến nơi Thế tôn. Khi đến nơi, có người kính lễ Thế tôn rồi ngồi một bên; có người nói với Thế tôn những lời chào hỏi, và sau khi chào hỏi thân hữu rồi ngồi một bên; có người chấp tay vái chào rồi ngồi một bên; có người xưng tên họ rồi ngồi một bên; có người im lặng rồi ngồi một bên. Sau khi ngồi một bên, những người Kâlâma ở Kesaputta bạch Thế tôn:

Bạch Thế tôn, có một số Sa môn, Bà la môn đến Kesaputta. Họ thuyết minh và phát huy giáo lý của mình mà bài xích, khinh miệt, chê bai, và xuyên tạc giáo lý người khác. Và Bạch Thế tôn, có một số Sa môn, Bà la môn cũng đến Kesaputta. Họ thuyết minh, phát huy giáo lý của mình mà bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Đối với họ, bạch Thế tôn, chúng con có điều nghi ngờ, phân vân:

Này các người Kâlâma, đương nhiên phải nghi ngờ, đương nhiên phải phân vân. Đối với điều đáng nghi ngờ thì phân vân khởi lên.

Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn (2) là thầy mình.

Nhưng này các Kâlâma, khi nào các ngươi tự biết rõ: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này là bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh khổ đau – thời này các người Kâlâma, các ngươi hãy từ bỏ chúng đi.

 

Tham sân si

Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào, khi tham sân si (*) khởi lên trong lòng người nào thì hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

- Bạch Thế tôn, bất hạnh.

Này các người Kâlâma, người tham lam, sân hận, si mê (*) tâm bị tham sân si chinh phục, chiếm cứ, giết sinh vật, lấy của không cho, đi lại với vợ người, nói dối, khuyên bảo người khác cũng làm như vậy – có bị bất hạnh đau khổ kéo dài hay không?

- Bạch Thế tôn, có,

Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: các pháp này là thiện hay bất thiện? – Bạch Thế tôn, bất thiện. – Đáng chê hay không đáng chê? – Bạch Thế tôn, đáng chê. – Bị người trí chỉ trích hay được người trí khen ngợi? – Bạch Thế tôn, bị người trí chỉ trích. Nếu được thực hiện, chấp nhận thì có dẫn đến bất hạnh đau khổ. Sự thật là như vậy.

Như vậy, này các người Kâlâma, điều ta vừa  nói với các người: các người Kâlâma, các người đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng,, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sátvà chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: các pháp này là bất thiện, các pháp này đáng chê, các pháp này bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực hiện chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh, khổ đau thời các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi. Điều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.

 

Điều nên chấp nhận

Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì theo tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa Môn là thầy mình.

Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui. Thời này các người Kâlâma, các người hãy đạt đến an trú.

 

Không tham sân si

Này các người Kâlâma. Các người nghĩ thế nào: khi  không tham, không sân, không si (3) khởi lên trong lòng người nào thì hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

- Bạch Thế Tôn, hạnh phúc.

Này các người Kâlâma, người không tham, không sân, không si, tâm không bị tham sân si chinh phục, chiếm cứ, không giết sinh vật, không lấy của không cho, không đi lại với vợ người, không nói dối, không khuyên bảo người khác, cũng làm như vậy có được an vui lâu dài hay không?

          -Bạch Thế Tôn, có.

Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: các pháp này là thiện hay bất thiện? – Bạch Thế Tôn, thiện. – Đáng chê hay không đáng chê? – Bạch Thế Tôn, không đáng chê. – Bị người chỉ trích hay được người trí khen ngợi? – Bạch Thế Tôn, được người trí khen ngợi. – Nếu được thực hiện, chấp nhận thì có dẫn đến hạnh phúc an vui hay là như thế nào? – Bạch Thế Tôn, nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc và an vui. Sự thực là như vậy.

Như vậy, này các người Kâlâma, điều ta vừa nói với các người, các người Kâlâma, các người đừng tin vì theo nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: các  pháp này là thiện, các pháp này không đáng chê, các pháp này được người trí ca ngợi, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui thời các người Kâlâma, các người hãy đạt đến và an trú. Điều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.

 

Từ Bi Hỉ Xả

Này các người Kâlâma, vị Thánh Thanh Văn nào ly tham sân si, giác tỉnh, chánh niệm, với tâm Từ Bi Hỉ Xả (3) tỏa khắp một phương và an trú. Cũng như vậy phương thứ hai, phương thứ ba và phương thứ tư. Cũng như vậy tỏa khắp vũ trụ bên trên, phía dưới, bề ngang, mọi hướng, mọi nơi; vị ấy an trú với tâm Từ Bi Hỉ Xả (4) rộng rãi, to lớn, không giới hạn, hết sạch giận dữ.

Các người Kâlâma, vị Thánh Thanh Văn với tâm không giận không hại không ô nhiễm, thanh tịnh như vậy thì ngay ở đây và bây giờ vị ấy đạt được bốn điều an ổn:

 

Bốn điều an ổn

 

1. "Nếu có đời sau, có quả báo của các nghiệp thiện ác thì sau thân hoại mạng chúng ta sẽ sanh vào thế giới an vui sung sướng."

Đây là điều vui thứ nhất có thể đạt được.

2. "Nếu không có đời sau, không có quả báo các nghiệp thiện ác thì ngay ở đây và bây giờ  ta sống tự tại, không giận, không hại, an tịnh, vui vẻ."

Đây là điều vui thứ hai có thể đạt được

3." Nếu lỡ làm điều ác nhưng ta không có ác tâm với một ai thì làm sao ta có thể chịu đau khổ vì nghiệp ác?"

Đây là điều vui thứ ba có thể đạt được.

4. "Nếu không làm điều ác thì như vậy ta tự thấy thanh tịnh cả hai phương diện –vô ý và cố ý."

Đây là điều vui thứ tư có thể đạt được.

Này các người Kâlâma, vị Thánh Thanh Văn, với tâm không giận, không hại, không ô nhiễm, thanh tịnh như vậy thì ngay ở đây và bây giờ vị ấy đạt được bốn điều an ổn như này.

- Đúng như thế Bạch Thế tôn. Đúng như thế Bạch Thiện Thệ. (*)

Bạch Thế Tôn, thật là vi diệu! Bạch Thế Tôn, chúng con xin quy y Thế Tôn. Quy y Pháp, quy y chúng Tỳ Kheo. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử tại gia; từ nay cho đến khi chết, chúng con xin trọn đời quy y.

 

Chú thích sơ lược

(1)  – Mười hiệu này nói lên đức tính của Phật.

. A La Hán: bậc đáng kính

. Chánh biến tri, bậc hiểu biết đứng đắn và cùng khắp.

. Minh hạnh túc : bậc đầy đủ trí đức.

. Thiện thệ ; sống trong đời một cách khéo léo.

. Thế gian giải : bậc hiểu cuộc đời.

. Vô thượng sĩ : bậc cao cả không ai bằng.

. Điều ngự trượng phu : bậc dìu dắt người cao thượng.

. Thiên nhân sư : Thầy của người và trời

. Phật : bậc giác ngộ hoàn toàn.

. Thế Tôn : bậc mà người tôn kính.

(2)  – Sa môn là tên chung chỉ những người tu hành của các đạo giáo lúc bấy giờ  kể cả đạo Phật.

(*) – Những dấu này chỉ cho những đoạn ghép chung hay bỏ bớt để bản dịch không bị lặp đi lặp lại.

(3) – Từ : thương yêu, tình bạn ; Bi : giúp đỡ, làm cho người khác bớt khổ, hết khổ ; Hỉ : vui mừng đối với thành tựu của kẻ khác ; Xả : không cố chấp, tự tại.

(4) – Có lẽ trong bản Pâli của Pâli text Society in thiếu ba tâm : từ, bi và hỉ. Vì thế bản dịch này thêm vào.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 4576)
Viện chủ TỔ ĐÌNH SẮC TỨ TỪ QUANG (Đá Trắng - Phú Yên) Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
20/10/2019(Xem: 6718)
Thân thế: Cố Đại đức thế danh Lê Quý Trúc Bảo, sanh vào ngày 23/3/1975 trong một gia đình nhiều đời theo Phật. Trong lần gia đình di cư đầu tiên vào Nam, song thân đã sinh Đại đức (ĐĐ) tại Tam Bình, Thủ Đức, Gia Định. Thân phụ là ông Lê Quý Triết, Thân mẫu là bà Hoàng Thị Tựu; nguyên quán Trà Trì, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị. ĐĐ sinh ra trong gia đình có 8 anh em gồm 3 người anh trai, 2 em gái và 2 người em trai. Sau 30/4/1975 gia đình trở về nguyên quán Trà Trì, Quảng Trị. Đến tháng 7/1977 gia đình của cố ĐĐ lại một lần nữa di cư vào Nam và trú ở vùng kinh tế mới tại Châu Thành, Đồng Nai. - năm 1981-1986, cố ĐĐ học trường Tiểu học Quảng Thành, Châu Thành, Đồng Nai - năm 1986-1990, cố ĐĐ học trường Trung học cơ sở Kim Long, Châu Thành, Đồng Nai.
20/10/2019(Xem: 4613)
Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng nho học, nhưng dường như vốn có túc duyên nhiều đời với Phật pháp nên từ lúc thiếu thời khi còn đi học tại trường Trung học Dũng Lạc Hà Tây, Hòa thượng đã có xu hướng tìm hiểu Phật giáo. Đến năm 19 tuổi (1953) Ngài lặng lẽ từ biệt gia đình cùng người thân, từ giã nơi chôn nhau cắt rốn lần bước đi tìm thầy xuất gia cầu Đạo để hoàn thành ước nguyện của mình.
20/10/2019(Xem: 4981)
CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Trị Nguyên Phó trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Trị Trú trì Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang – Quảng Trị; Tổ đình Hải Đức – Huế THÂN THẾ Hòa thượng họ Võ, húy Viết Hữu, nối pháp dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41, pháp danh Không Cẩn, tự Trí Hải. Hòa thượng sinh năm Tân Tỵ [1941] tại thôn Phương Lang, xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Hòa Thượng xuất thân trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo, thân phụ là Cụ ông Võ Viết Linh – pháp danh Nguyên Minh, thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Diệm – pháp danh Nguyên Huệ. Ngài là người con út trong gia đình có 8 anh chị em.
20/10/2019(Xem: 7570)
Hòa thượng là người làng Triều Thủy, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tên thật là Nguyễn Đình Hiệp, sinh năm 1938, mất năm 1973 tại Sài Gòn. Sinh trong một gia đình thuần Phật có 9 anh em 4 trai 5 gái mà Hòa thượng là con út. Thân phụ là cụ Nguyễn Đình Thắng, pháp danh Tâm Minh, tự Diệu Dụng. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lang, pháp danh Tâm Lạc.
20/10/2019(Xem: 5098)
Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác (1928 – 2012) – Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Thành Viên Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sỹ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. – Nguyên Tổng Thư Ký Hội Đồng Lãnh Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại. – Nguyên Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. – Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ. – Viện chủ Tổ Đình (PHV) Pháp Quang; chùa Nam Tông; chùa Xá Lợi Phật Đài (Việt Nam). – Viện chủ Pháp Luân Tự, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
20/10/2019(Xem: 5150)
Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Hòa thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12-11-Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh (Đồng Tháp). Hòa thượng xuất thân trong gia đình kính tin Tam bảo, thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh, chị xuất gia tu học.
20/10/2019(Xem: 4563)
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) (1921 - 1984) Nguyên: - Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravàda) Việt Nam. - Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
20/10/2019(Xem: 16674)
Hòa thượng Giác Khang thế danh Tô Văn Vinh sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Thân sinh là cụ ông Tô Khanh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Gia đình có 5 trai, 5 gái. Hòa thượng là con thứ 8 trong gia đình. Hòa thượng tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm. Ra trường đi dạy học ở Cái Côn – Cần Thơ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]