Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Dhammadinna (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:39(Xem: 1340)
Kinh Dhammadinna (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

Phat thuyet phap
KINH DHAMMADINNA

HT. Thích Thiện Châu giảng giải

Phật tử Diệu Danh diễn đọc


 
Kinh DHAMMADINNA thuộc Tương Ưng Bộ (Samyutta-Nikâya), tập V, Chương VI, số 53, trang 406 (Pâli Text Society). Hòa Thượng Thích Minh Châu đã dịch toàn bộ, Tủ thư Phật học Vạn Hạnh xuất bản 1982. Nội dung kinh có thể tóm tắt như sau:

           Cư sĩ (Upâsaka) Dhammadinna cùng 500 cư sĩ bạn xin Phật thuyết pháp. Phật khuyên nên thấu triệt đạo lý KHÔNG (Sunnatâ) trong các kinh sách do Phật thuyết. KHÔNG ở đây có nghĩa là Vô Ngã (Anattâ).

          Chúng sanh (être vivants) và vũ trụ tuy hiện hữu song vốn không chắc thật vì được hình thành bởi các nhân duyên. Ví dụ: con người là một tổng hợp của năm uẩn (khandha): (1) SẮC (vật chất) (2) THỌ (cảm giác+tình cảm) (3) TƯỞNG (nhận thức), (4) HÀNH (vô thức+ý chí) (5) THỨC (phân biệt, hiểu biết). Và chính năm uẩn cũng là những tập hợp không chủ thể. Con người đã không phải là một chủ thể ngã, thì làm gì có sở hữu của ngã. Xa hơn, bản ngã siêu hình cũng chỉ là vọng tưởng. Nếu nhận chân được đạo lý Vô ngã hay không thì chúng ta có thể cởi mở những ràng buộc phi lý do vô minh và phiền não gây ra; nghĩa là chứng đạt Niết Bàn. Không hay vô ngã là đạo lý đặc thù của đạo Phật mà không thể tìm thấy trong các tôn giáo và triết lý khác.

          Vì tin tưởng vào khả năng giác ngộ giải thoát của con người, ngay cả những người sống trong cuộc đời bận rộn, phiền toái, nhiều ràng buộc, Phật khuyên dạy cư cĩ Dhammadinna và các bạn đạo học hỏi và tu dưỡng theo đạo lý Không để được hạnh phúc an lạc lâu dài. Song vì biết rõ khả năng của mình, cư sĩ Dhammadinna xin Phật giảng dạy cho các phép tu học thích hợp hơn đối với người tu tại gia.
          Phật lại khuyên cư sĩ Dhammadinna nên tu học theo bốn pháp căn bản- thành tựu lòng tin không lay chuyển đối với
(1)  PHẬT – bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn
(2)  PHÁP – chánh pháp trong sáng, thực tiễn, lợi ích
(3)  TĂNG – những người tu hành đạo hạnh, đáng tôn kính và lợi ích cho chúng sanh.
(4)   GIỚI – năm giới căn bản mà chủ yếu là tôn trọng sự sống, tài sản kẻ khác, hạnh phúc gia đình. Sự thật và phát triển trí tuệ.
   Sau đó, cư sĩ Dhanmmadinna trình bày sự thành tựu bốn pháp của mình và của các bạn đạo. Phật ca ngợi và chứng nhận Dhammadinna và 500 cư sĩ đã chứng đạt quả vị Dự lưu (tu đà hoàn – Sotâpatti) trong khi tự những cư sĩ ấy không thể tuyên bố là họ đã chứng đạt quả vị Dự lưu.
Qua nội dung kinh, chúng ta có thể thấy rõ ràng hạnh phúc an lạc lâu dài có thể thực hiện ngay ở đây và bây giờ bằng hai phương pháp. Lẽ dĩ nhiên, phương pháp có khác nhau thì kết quả không giống nhau:
- Phương pháp thứ nhất gọi là ĐẠT ĐẠO, nghĩa là với khả năng thông minh, lanh lợi và hoàn cảnh không ràng buộc, người tu hành có thể nhập đạo lý không nhờ sự khai sáng của các bậc giác ngộ hay kinh điển sâu sắc phù hợp với đạo lý Không: Vô Ngã; và như vậy chứng đạt được quả vị A La Hán, giải thoát mọi sự ràng buộc và đau khổ sau khi trừ sạch 10 kiết sử: (1) Thân kiến: chấp có cái ta (Samyojana); (2) Nghi: không tin chơn lý và người tìm ra chân lý; (3) Giới cấm thủ: mê tín tà giới cho rằng những điều kiêng cử tà vạy có thể đưa đến giác ngộ giải thoát; (4) Tham dục: đam mê dục lạc (5) Giận dữ: tàn bạo, độc ác (6): Tham sắc: đam mê hình sắc vi tế thuộc sắc giới (7): Tham vô sắc: đam mê sự hiện hữu thuộc vô sắc giới (8): Mạn: kiêu căng. Ngạo mạn  (9) : Giao động: náo động bên ngoài, không thanh tịnh trong tâm (10): Vô minh: không hiểu khổ và khổ diệt.
- Phương pháp thứ hai: tạm gọi là TU ĐỨC, nghĩa là mặc dù khả năng phát triển trí tuệ bị hạn chế và phải sống trong hoàn cảnh có nhiều ràng buộc cá nhân, gia đình, xã hội, người tu hành với sự thành tựu lòng tin bất động đối với Ba ngôi báu và có nếp sống quân bình lành ích, có thể chứng đạt quả Dự lưu  (Sotâpatti: vào giòng, vào đạo) sau khi trừ sạch 3 kiết sử: (1): Thân kiến, (2): Nghi và (3): Giới cấm thủ và lần lần chứng đạt quả vị Nhất Lai (Sakadâgâmi: sanh lại một lần) sau khi trừ được phần thô kệch của kiết sử thứ 4 và 5, tức là tham dục và giận dữ, rồi chứng đạt quả vị Bất hoàn (Anâgâmi: không sanh lại trong cõi đời này) sau khi trừ sạch 5 kiết sử đầu, tức là từ kiết sử 1 đến thứ 5 và cuối cùng là chứng đạt quả vị A La Hán (Arahatta) – giải thoát hoàn toàn sau khi trừ sạch 10 kiết sử.
Điều cần lưu ý là 4 đạo quả có thể chứng đạt ngay trong đời này. Song nếu chưa đủ khả năng chứng đạt 3 quả vị sau cùng thì người tu hành sau khi chết, nếu đã chứng đạt Dự lưu, tái sanh 7 lần trong cõi đời này để tu hành thêm mới chứng đạt vô sanh (A La Hán), nếu đã chứng đạt Nhất lai 1 lần… nếu đã chứng đạt Bất hoàn, sanh về Tịnh Độ (gồm có 5 cõi thuộc Sắc giới (rupaloka) Vô phiền (Âviha). Vô nhiệt (Atappa), Thiện kiến (Sudassa), Thiện hiện (Sudassi), Sắc cứu cánh (Akanittha) và từ đó chứng đại A La Hán.
Như vậy bốn đạo quả Niết Bàn có thể chứng 1 lần hay nhiều lần, trong đời này hay những đời sau.
 
CHÁNH KINH
 
Một thời Thế Tôn ở Bârânasi, tại Isipatana, trong vườn nai. Bấy giờ cư sĩ Dhammadinna (1) cùng 500 cư sĩ đi đến Thế Tôn, rồi ngồi xuống 1 bên. Ngồi xuống 1 bên rồi, cư sĩ Dhammadinna bạch với Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng dạy cho chúng con, xin Thế Tôn chỉ bảo cho chúng con để cho chúng con có được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
-Vậy thì, này Dhammadinna, các người cần nên tu học như vầy: Đối với những kinh điển  do Như Lai thuyết giảng sâu sắc, nghĩa lý sâu sắc, siêu việt, phù hợp với đạo lý KHÔNG (2) nên thường xuyên dốc lòng học hỏi. Như thế, này Dhamadinna, các người càng nên tu học.
- Bạch Thế Tôn, thật không dễ gì cho chúng con, những kẻ sống trong nhà đông con, thích chiên đàn của Kâsi, (3) đeo tràng hoa, thoa hương phấn, cất giữ vàng bạc, thường xuyên dốc lòng học hỏi những kinh điển sâu sắc, lý nghĩa sâu sắc, siêu việt, phù hợp (đạo lý) KHÔNG. Vậy xin Thế tôn giảng dạy cho chúng con, những kẻ an trú trong 5 giới (4) các giáo pháp khác.
- Vậy thì, này Dhammadinna, các người cần nên tu học như vầy: chúng tôi sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với Phật – Thế Tôn là bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Chúng tôi sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với Pháp -  Pháp do Thế Tôn khéo giảng, thiết thực trong hiện tại, có hiệu quả tức thời, cần đến mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ người trí mới tự mình hiểu thấu.
Chúng tôi sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với Tăng – Diệu Hạnh là đệ tử thanh văn của Thế Tôn. Trực Hạnh là đệ tử thanh văn của Thế Tôn. Chơn Chánh Hạnh là đệ tử thanh văn của Thế Tôn, Hòa Kính Hạnh là đệ tử thanh văn của Thế Tôn Tức là bốn đôi và tám bậc thượng nhân. (5) Đệ tử thanh văn của Thế Tôn là đáng cung kính, cúng dường, tôn trọng, vái chào, là ruộng phước không gì hơn trong đời.
Chúng tôi sẽ thành tựu giới được các bậc ưa thích, không bị bể nát, đứt đoạn, lấm lem, nhơ nhớp, đưa đến giải thoát, được người trí khen ngợi, không bị chấp thử và dần đến thiền định. Như vậy, này Dhammadinna, các người nên tu học.
- Bạch Thế Tôn. Bốn pháp dẫn đến dự lưu  (Sotâpatti) (6)  được Thế Tôn giảng dạy, có mặt nơi chúng con; chúng con đã thực hiện những pháp ấy.
- Bạch Thế Tôn, chúng con thành tựu lòng tin bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và Giới (7). Này Dhammadinna, lợi ích thay cho các người. Này Dhammadinna quả thật lợi ích cho các người, Nầy Dhammadinna, người đã tuyên bố về quả dự lưu (8)
 
 
CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC
 
1)    Dhanmmadinna: cư sĩ Dhanmmadinna là một trong bảy đệ tử tại gia có đến 500 bạn đạo
2)    KHÔNG (sunnatâ): Đạo lý KHÔNG trong kinh này có nghĩa là Vô ngã (nhơn không, pháp không) do Phật Tổ thuyết minh, trong mục đích giúp chúng ta nhận rõ sự thật nơi con người và cuộc đời không chắc thật, bền lâu,  do đó không "chấp thủ" và tự tại an vui cuộc sống. Sự vật vốn không có chủ thể  chứ không phải là không có. Bong bóng hiện hữu là nhờ có nước xà phòng, ống thổi và hơi người thổi, song không hề có chủ thể chắc thật thường còn của bong bóng. Do biết rõ bong bóng vốn là không thật nên khi bong bóng hiện ra với màu sắc long lanh chúng ta không vui mừng đến nỗi điên cuồng, và khi bong bóng tan vỡ chúng ta không buồn phiền đến nỗi chết lịm. Chỉ người lớn mới biết sự thật của bong bóng. Thánh nhân mới hiểu sự thật của cuộc đời.
3)    KÂSI tức là VARANASI (Bébarès) bây giờ. Đây là một thành phố cổ, nằm trên khúc sông  Gange "linh thiêng“ Ấn Độ và cách đây 2500 năm, lúc Phật ra đời, đã có nền văn minh khá cao: dân chúng đã biết dùng hương phấn và ngay cả áo quần dệt bằng chỉ vàng thật.
4)    5 GIỚI: là không sát sanh, trộm cướp, tà hạnh, dối trá và uống dùng các loại rượu và thuốc làm say loạn tâm ý.
5)     Bốn đôi đạo quả cũng là bậc thượng nhân: 1 – 2 Dự lưu đạo – Dự lưu quả 3 – 4 : Nhất lai đạo – Nhất lai quả 5 – 6: Bất hoàn đạo, Bất hoàn quả 7 – 8: Vô sanh đạo, Vô sanh quả.
6)    DỰ LƯU: Vào giòng thánh hay vòng cửa đạo. Đã chứng đạt dựu lưu thì chắc chắn không còn thối lui và thẳng tiến đến Niết Bàn.
7)    Đoạn này dịch gọn lại: có thể xem ở đoạn trên về Phật Pháp Tăng
8)    Người tu hành dù chứng đạt đạo quả cũng không tự khoe. Nếu khoe thì phạm lỗi tăng thượng mạn. Nếu chưa chứng đạt mà nói là đã thì thì phạm tội vọng ngữ, 1 trong 4 tội nặng hải ra khỏi Giáo Hội.
 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6878)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 7791)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 6737)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 11478)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 9245)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 14775)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 6553)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 14815)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 7603)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
09/04/2013(Xem: 6564)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]